Bác Hồ thăm trường Kinh tế Tài chính (3/1961) và giao nhiệm vụ cho Hiệu trưởng Đoàn Trọng Truyến (đứng thứ hai từ phải sang) |
Đêm thứ năm ngày 9/7, buổi phát thanh thời sự của Đài THT.Ư loan đi cái tin buồn GS, Nhà giáo Nhân dân, nguyên Bộ trưởng, Tổng thư ký HĐBT kiêm Chủ nhiệm VPHĐBT, nguyên Chủ nhiệm UB Vật giá Nhà nước... Đoàn Trọng Truyến qua đời. Tôi chợt nhớ lần được ngồi hầu chuyện cụ hơn bảy năm trước, được nghe cụ kể về Tổng Bí thư Lê Duẩn về thời kỳ Giá - Lương - Tiền...
Lần ấy tới nhà cụ Truyến, duyên do là được theo một người bạn cũ quen biết gia đình cụ. Cứ như anh bạn cho hay, hơi bị hiếm có một nhà mà hai cha con là thượng thư đồng triều. Cha là Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng HĐBT (năm 1984). Chức ấy, sau này ông con là Đoàn Mạnh Giao gánh (năm 1999).
Lại nữa, bạn tôi lại thạo khoản chữ Hán. Từng không dưới vài ba lần, anh than nhà cụ có đôi câu đối hóc và khó dịch lắm... Tôi ngại bởi cửa ấy có phải là nơi để cánh báo chí như chúng tôi lui tới? Nhưng anh bạn khuyến khích “cụ chẳng khó tính lắm đâu. Cứ tới, cụ còn giải nghĩa cho”.
Anh bạn có điện thoại trước nên khi tới khu chung cư ở cuối phố Nguyễn Du, người nhà cụ đã niềm nở dẫn lối lên gác hai. Thì ra cụ ở chung nhà với ông Hoàng Đức Thịnh, Bộ trưởng Bộ Nội thương cuối những năm sáu mươi. Căn phòng khách rộng vừa phải nên đôi câu đối mà anh bạn tôi thích được đặt ở vị trí trang trọng, lại dễ nhìn.
Tôi không thạo lắm khoản này nhưng thứ văn tự tạc rất sắc nét trên mặt gỗ gụ theo lối chữ khải bạc phếch bởi thời gian như càng tăng thêm sức hút của sự tò mò mời gọi.
Cánh cửa phòng bên mở nhẹ, một cụ ông dáng cao, tóc bạc phơ có cái cười hiền lành đi ra. Thấy anh bạn tôi chào xong cứ chăm chắm vào đôi câu đối, cụ khẽ cười “Từ năm 1925 cơ đấy, khi ấy tôi mới ba tuổi”. Rồi cụ khẽ đằng hắng, giọng rành rẽ Ngô đẳng tri sở tài, xích tuyết kinh thu ngung nhã phạm. Triều đình mậu khuyết thưởng Chu tinh lưỡng độ mục Hoàng ân.
Chừng như hồn cốt hàm súc cô đọng của chữ nghĩa lây sang khiến chủ nhân da dẻ như hồng hào và cởi mở thêm lên “Đây là câu đối của học trò mừng thầy học, ông cụ tôi ấy mà.
Cụ đỗ Tú tài kép. Các chữ Xích tuyết kinh thu và Chu tinh là có điển cả đấy và cũng rất chi là khó dịch! Dòng lạc khoản đề: Khải Định Ất Dậu trọng thu, tức là năm Khải Định, tiết giữa thu (1925)”.
Tôi thầm nhẩm, như vậy cụ Truyến sinh năm 1922. Năm Tỵ này cụ chẵn 80 tuổi ta. Cụ dừng lâu hơn ở hàng lạc khoản, cứ như sự cắt nghĩa thêm của chủ nhân, câu đối này là của cụ tú Hoàng Đức Trạch, học trò ông cụ thân sinh.
Gia đình cụ tú cũng là chỗ đi lại với Cụ Phan Bội Châu. (Cụ tú là thân sinh bà Ái Hoát, phu nhân đồng chí Nguyễn Linh Khiếu có thời gian là Đại sứ ta ở Liên Xô). Khá thông đạt chữ nghĩa, nhưng cảm và trọng cái tình cái công của thầy học nên cụ tú nằn nèo bằng được Cụ Phan cho câu đối trên. Chữ nghĩa Cụ Phan thì khỏi nói nên ý tứ, ngữ nghĩa câu đối đã vượt thoát khỏi những khuôn sáo ước lệ của nhiều câu đối mừng thầy học...
Bởi vậy nên khi cụ Truyến than khó dịch nên, về nhà, tôi với anh bạn loay hoay chắp đặt lắp ghép mãi mới tạm hiểu đại để Chúng con biết học vấn của Thày luôn toát lên vẻ thanh tao uẩn súc. Tài năng trước cửa khuyết triều đình vốn đông đúc nhưng hai lần Thày đã đứng đó rồi.
Chủ nhân thân rót nước mời khách. Trong câu chuyện cởi mở của cụ, tôi mới biết cụ cùng làng với Đại tướng Lê Đức Anh.
Làng cụ có hai dòng họ lớn là họ Hồ và họ Đoàn. Họ Hồ có những Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di nổi tiếng sau này. Họ Đoàn hiếu học nhưng nghèo. Thân sinh cụ Truyến, thuở nhỏ nhà nghèo, không được đi học mà phải đi giữ trâu học lỏm theo chúng bạn hàng xóm.
Một bữa cụ Tú xóm bên đang dạy học trò trông thấy đứa trẻ nằm trên lưng trâu mà cứ leo lẻo đọc theo cụ. Lấy làm lạ, cụ gọi vào hỏi han rồi cho người sang nhà họ Đoàn.
Từ ấy cậu được làm môn sinh nhà họ Hồ. Cụ đồ, ngoài việc cấp lương ăn cho học khi cậu lớn lên, lại thuê thày dạy chữ. Khi trưởng thành được cụ Tú gả con gái cho.
Không phụ công và tấm thịnh tình của nhạc phụ, con rể họ Hồ ấy đỗ tú tài rồi cử nhân. Sau đó cụ đi dạy học. Học trò cụ có tới hàng trăm, nhiều người sau này đỗ đạt, nhiều người ra làm chức quan này khác của triều đình Huế (đôi câu đối treo kia có ý ấy).
Năm 1941, cụ tú mất thì năm sau người con trai Đoàn Trọng Truyến cũng học xong thành chung vào tú tài. Như vậy cậu đã nối được nghiệp bố. Nhưng sau khi bố mất, gia cảnh cũng sa sút. Một đi làm, hai đi học tiếp. Chàng thanh niên Đoàn Trọng Truyến thi vào tham tá Tòa sứ (như chuyên viên bây giờ).
Một thời gian sau vừa đi làm vừa học thêm, anh thi đậu kỹ sư canh nông (nhà thơ Cù Huy Cận học trước Đoàn Trọng Truyến hai năm). Đoàn Trọng Truyến hành nghề kỹ sư canh nông ở Quảng Ngãi, Huế.
Tại Huế, ông được gặp nhà thơ Tố Hữu và bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Rồi ông tham gia khởi nghĩa tại Huế. Năm 1946 là đại biểu quốc hội khóa đầu tiên, rồi các khóa 2,3,4,5 là đại biểu quốc hội các tỉnh Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa, Hải Dương...
Cứ như trong câu chuyện với cụ, tôi lờ mờ nghĩ thêm cái gene quản lý kinh tế có lẽ xuất hiện ở Đoàn Trọng Truyến khá sớm. Khi tham gia Ủy ban Hành chính Kháng chiến Khu Trung, ông được phân công là ủy viên trưởng kinh tế.
Năm 1948 khi Khu Trung Bộ giải thể, ông lên Việt Bắc. Ngày 18/6/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bổ nhiệm Đoàn Trọng Truyến giữ chức Đổng lý Sự vụ Bộ Kinh tế của Chính phủ.
Chuẩn bị cho tiếp quản thủ đô, trường quản lý kinh tế được mở ra, ông là hiệu phó. Sau này trường đổi tên là Trường Kinh tế Tài chính Trung ương. Rồi ông được điều sang Đại học Nhân dân phụ trách các khóa đào tạo bồi dưỡng các nhân viên công chức dưới chế độ cũ làm quản lý kinh tế. Những năm đầu 60, ông là Hiệu trưởng Trường Kinh tế Tài chính và sau đó lên công tác ở Ban Tài Mậu T.Ư.
Bây giờ vẫn đậm trong trí nhớ của ông khi ngày đêm miệt mài tham gia nhóm dịch cuốn Tư Bản Luận. Và cũng đậm trong hồi ức của người cán bộ nhiều năm làm công tác quản lý ấy có lẽ chưa phải là thời gian ông giữ chức Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ mà là những năm tháng cùng làm việc với nhà thơ Tố Hữu khi đó là Phó thủ tướng, còn ông là Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá của Chính phủ...
Rồi sau này (bây giờ đã có kha khá), những cuốn hồi ký tày tặn ghi lại những năm tháng bao cấp khó khăn ở nhiều lĩnh vực về vấn đề giá lương tiền. Nhưng vẫn đậm mãi trong tâm trí tôi về những lời tâm sự của bậc nguyên lão từng can dự vào thời điểm cam go ấy của đất nước.
Những hình ảnh đồng chí Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn trong đêm Hà Nội, đã khuya khoắt lắm, bên cạnh có các cộng sự, những Trần Phương, Đoàn Trọng Truyến, Trần Quỳnh đàm luận về vấn đề giá lương tiền.
Những buổi ông được (hay là phải) triệu tập, được gọi gấp vào những thời điểm không thể ngờ để bàn việc nước, những buổi có mặt các lãnh đạo cao cấp, có cả chuyên gia nước ngoài. Dường trong câu chuyện, cụ truyền như lây sang chúng tôi cái ấn tượng về TBT Lê Duẩn. Đó là phương pháp làm việc độc đáo của TBT mà ông xuýt xoa rằng từng có dịp làm việc bên cạnh nhiều năm nhưng nhiều khi vẫn cảm thấy bất ngờ.
Ông bất ngờ điều gì vậy?
Ông tâm sự, mình đã là cử nhân trước đây thì đọc tiếng Pháp không nói làm gì nhưng không hiểu TBT bận liên miên như thế, thời gian dành hết cho hoạt động thì bổ túc tiếng Pháp vào lúc nào?
Ấy thế mà rất nhiều tài liệu tham khảo do chuyên viên chọn lựa, ông ấy đã đọc, mà đọc kỹ, nghiên cứu kỹ. (sau này ông mới hay có vốn ngoại ngữ ấy, TBT đã tích góp được từ thời gian trong các nhà tù của đế quốc).
Rồi bây giờ có không ít sự xì xào thậm chí ta thán về phương pháp làm việc làm nhiều người sợ, nhưng vẫn mồn một trong ông cái phương pháp biết nghe người khác của người lãnh đạo cao nhất lúc đó.
Theo ông, TBT biết khuyến khích những ý tưởng hay, độc đáo mới mẻ của người đối thoại và tranh luận bắt bẻ lật qua lật lại những ý tưởng mới đó. Mà thời gian cắt có khi cả tiếng nửa tiếng. Cắt tức là tranh luận. Anh nào không nắm bắt được phương pháp ấy dễ hoang mang, thậm chí khiếp hãi.
Có những ý, những luận cứ TBT thẳng thừng bác bỏ không nể nang hay tế nhị gì hết. Vậy nên chọn phương pháp nào, được lòng hay được việc?
Chuyện với cụ, tôi chợt nhớ ông Đoàn Duy Thành có lần kể cho mấy anh em làm báo rằng, hồi ông là Bí thư Thành ủy Hải Phòng, đã có những đêm TBT, với phương pháp gợi ý khuyến khích sự tranh luận, ông đã ngồi với TBT Lê Duẩn tới tận sáng! Hình như đó là lần TBT Lê Duẩn chịu nhường ông khi hai người tranh luận về một quan điểm của Khổng Tử.
Một điều khá bất ngờ với chúng tôi là, cuối buổi gặp hôm ấy, cụ có vẻ như đang làm cái việc sòng phẳng với quá khứ? Chủ nhân không phải với chất giọng chùng xuống hoặc buồn nản mà là bình thản. Cụ nói thẳng sai lầm cơ bản trong thời điểm Giá- Lương -Tiền ấy là đã nghe, đã học, đã áp dụng một cách máy móc nhiều kinh nghiệm của nước ngoài.
Thời điểm ấy chúng ta đã làm rất nhiều việc, những việc ấy thoạt nhìn thoạt nghe thấy hay, thấy đúng, thấy nhanh nhạy kịp thời nhưng chả phải dần dà nữa, mà nhỡn tiền ngay thấy lắm diễn tiến lẫn kết cục vô vọng. Vô vọng vì nó nằm trong cái tổng thể sai lầm kia.
Miền Nam vừa giải phóng. Đó là một thị trường khổng lồ. Thị trường đồng nghĩa với con buôn thậm chí coi đó là ma quỷ vv... Đem nền kinh tế kế hoạch, chỉ tiêu pháp lệnh mang vào “lắp ráp vận hành” ở nền kinh tế thị trường đầy năng động và biến động ấy hỏi sao không trục trặc?
V.v... và vv...
Tôi nhớ cuối buổi gặp, anh bạn có nhắc vài cái thú điền viên của những người cao tuổi có quyền được hưởng, cụ Truyến cười nào đã bứt hết ra mà thanh thản được đâu... đang phải nhúc nhắc qua lại chỗ anh Hà Học Trạc (thời điểm đó là Trưởng ban Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa-NV) mình được phân công phụ trách phần kinh tế...
Xen kẽ thời gian ấy lại phải tham gia trong nhóm tổng kết hoạt động của Chính phủ từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, rồi tham gia cuốn sách về cải cách hành chính và mấy chuyên đề đang làm dở như hệ thống công chức trong cơ chế thị trường...
Nói đến đây, cụ nhanh nhẹn quay vô nhà mang ra một chồng giấy. Đó là bản thảo cuốn Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền… mà cụ đang viết dở (cuốn sách này đã được NXB Pháp Lý xuất bản năm 2006).
Nhìn chồng bản thảo vun dày, tôi lờ mờ ngẫm thêm, phải là người trong cuộc từng chứng kiến, từng can dự, cọ xát và nếm trải những thành bại, dại khôn này khác của cả hệ thống một thời. Đối mặt với những ấu trĩ cùng mất mát này khác mà không buồn nản, không thở dài buông xuôi thoái lui một cách cay đắng thì phải có ý chí và nghị lực lắm?