Tôi đến trễ mất một tuần, người ta vừa cúng mở cổng làng xong. Tục này, theo ông Nguyễn Văn Lợi, Chủ tịch mặt trận Tổ quốc xã, thì đó là hình thức trừ khử xua đuổi cái cũ, đón chào cái mới. Làng nào cũng có cái cổng. Năm mới, làm cổng mới, hàng rào mới. Nhà riêng cũng vậy. Tôi dự một bữa uống rượu mừng ngày trỉa lúa đầu tiên trong năm. Chủ nhà là anh Nguyễn Văn Lượng. Theo thói quen, tôi đưa tay trái đón chén rượu từ Lượng, thấy anh rụt tay lại ngay, mặt bỗng nghiêm. Lượng giải thích: Cho, nhận, cầm, lấy gì ở đây, đầu tiên phải đưa tay phải ra, sau đó thì tùy, bởi người Xê Đăng quan niệm tay trái là tay của ma. Tay trái không được bốc đồ ăn, ma sẽ nhập vào người, truyền sang người khác. Tôi bốc một nắm xôi, định đưa vào miệng, thì Lượng lên tiếng: Anh bỏ một ít xuống sàn nhà đi. Sao lạ vậy? Cứ bỏ. Tôi nghe theo. Lượng nói: Cũng là tập tục đồng bào, nhà ai có người mất rồi thì khi ăn phải dành phần cho họ, bao nhiêu người thì bấy nhiêu phần được bỏ xuống sàn, một chút ít thôi, nhưng phải có. Anh bạn đồng nghiệp hỏi: Thế chuyện chấm rượu vào trán thì sao? Người ngồi bên cạnh đáp: Chuyện đó của người già, chấm rượu lên trán khách là để chúc vui, tránh được tà ma.
Cổng làng của người Xê Đăng |
Không như nhiều dân tộc khác ở Quảng Nam như Cơ Tu, Giẻ Triêng, Ve…, khi chết được táng trong thân cây gỗ, dựng nhà mồ, sau đó cải táng, sự đau buồn với người đã khuất của người thân được biểu lộ mãnh liệt bằng các hình thức nghi lễ, người Xê Đăng ở đây coi người sống hơn người chết và họ cực kỳ sợ người chết. Theo già làng Hồ Văn Dê, rừng ma ở cách xa làng, không ai dám đến và không được phép đến. Khi chúng tôi đề nghị xin dẫn đi thì ông lắc đầu liên tục. Người chết, để qua một đêm, sáng ra là chôn ngay. Không bỏ vào hòm, họ cõng người chết trên lưng đến địa điểm chôn. Nguyên tắc là huyệt chỉ đào một lần, nếu gặp phải đá hoặc vật cứng thì bằng cách nào đó móc cho được lỗ rộng đủ lọt thây, nhét vào, không được dời sang điểm khác. Họ không đào sâu, lấp kỹ mà chỉ đủ phủ kín thây là được. Có nơi, người ta lấy cây đè lên xác người chết. Của cũng được chôn theo, trong nhà có gì thì người chết có nấy. Nhiều cánh rừng ma, theo các cô giáo tại đây, bốc mùi ghê gớm bởi bị chó, heo rừng, quạ đào lên. Điều đáng nói là lấp thây xong, mạnh ai nấy chạy, vứt cả cuốc xẻng. Họ sợ con ma chạy theo ám. Hai đến ba ngày sau, nhà người chết mổ heo, mời cả làng.
Già làng ở Măng Lùng |
Người Xê Đăng nơi đây vốn từ bắc Tây Nguyên tràn xuống. Thời gian đã san bằng nhiều thứ. Tại nóc Măng Lùng- Ngọc Linh này, cách thôn 1 Trà Linh không xa, bảo lưu tập tục: Vợ hoặc chồng chết, không được ưng người khác. Vợ chồng mà không có con, cũng không được xin con nuôi, không được quan hệ lăng nhăng, nếu “gởi gắm lung tung” hòng kiếm con, làng sẽ phạt nặng bằng heo hoặc trâu. Trai gái yêu nhau được phép ngủ với nhau, nhưng nếu quan hệ tình dục trước khi cưới, chắc chắn già làng sẽ biết, bởi một trong hai người sẽ báo để được cưới, thì bị phạt nặng bằng con 4 chân là heo. Cưới, không thách cưới, có gì cưới nấy, có khi chỉ là con gà. Con gà ở đây được bà con rất coi trọng. Khi cúng, máu gà được chấm lên trán tất cả các thành viên trong gia đình. Người Xê Đăng xem bói bằng lưỡi gà. Con gà cúng, lưỡi thẳng thì tốt, quẹo chừng nào thì xấu chừng nấy. Vòng bạc, đồng của người già cũng là vật để xem bói. Chồng cô giáo Hàn Cơ dạy mẫu giáo tại đây kể: Nóc Tăc Ngo có ông già xem bói rất siêu, dùng vòng bạc cà lên bàn tay mình và phán. Anh mà bị mất tiền, đến ông xem, ông nói chính xác mất bao nhiêu, người lấy tên gì, khi nào, mặc dù từ Măng Lùng sang đó khá xa, và anh chưa từng gặp ông bao giờ. Vì thế, vòng đeo trên tay người già là vật không bao giờ được mua bán, đổi chác.
Ngọc Linh xa xôi ẩn mình trong mây. Ở đó những thước phim của văn minh mới chạm đến, còn rất sơ sài, bởi đường đến đỉnh trời đó rất gian nan. Người ta lo sợ khi đã mở đường, xe pháo ầm ĩ, nhất định rừng sẽ bị phá, thì lúc đó văn hóa làng cũng bị tiêu tan.