Tuyển sinh 2022: Bài toán khó chọn nghề

0:00 / 0:00
0:00
TP - Theo ý kiến nhiều chuyên gia, khi lựa chọn nguyện vọng, thí sinh cần nắm được các nguyên tắc cơ bản để tránh tình trạng bỏ học giữa chừng hoặc không thích làm việc.

Vênh giữa trình độ người học và nhu cầu thị trường

Hôm qua, Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nhân lực, Bộ GD&ĐT tổ chức Chương trình Tư vấn hướng nghiệp- tuyển sinh năm 2022. Tại đây, PGS.TS Trần Thành Nam, Chủ nhiệm khoa Các khoa học giáo dục, trường ĐH Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội, cho hay kết quả khảo sát 1.400 học sinh năm 2020 cho thấy có 40% học sinh đã xác định hướng nghề lựa chọn nhưng vẫn mơ hồ và chưa hiểu rõ hết về nghề; 25% học sinh không thống nhất được với cha mẹ về nghề đã lựa chọn; 30% học sinh còn băn khoăn hoặc chưa chọn được 1 nghề để theo đuổi; 5% học sinh đã chọn định hướng được nghề nhưng không phù hợp với bản thân.

Tuyển sinh 2022: Bài toán khó chọn nghề ảnh 1

Lựa chọn ngành học, thí sinh cần tính toán đến tương lai 5 - 10 năm tới. Ảnh Như Ý

Cũng trong năm 2020, nhóm của PGS Trần Thành Nam khảo sát trực tuyến 459 cựu học sinh đang du học ở Mỹ. Kết quả, 18,64% chưa xác định được chuyên ngành theo học; 22,03% lựa chọn đúng sở trường; 44,07% chọn ngành kinh tế.

PGS Trần Thành Nam cũng chia sẻ từ thực tế cho thấy cha mẹ có 8 sai lầm khi định hướng nghề nghiệp cho con như: thiếu tôn trọng mong muốn của con; áp đặt với suy nghĩ “còn nhỏ, chưa biết gì”; coi trọng hình thức nghề hơn giá trị nghề; bỏ mặc, không quan tâm định hướng nghề; sắp đặt toàn bộ lộ trình cho con; hướng nghề không căn cứ vào khả năng của con; sử dụng tài chính để giúp con có việc làm; chú ý cơ hội xin việc hơn là cơ hội phát huy sở trường.

Theo PGS Nam, thí sinh nên tuân thủ 5 nguyên tắc chọn nghề như: chọn nghề phù hợp với sở thích và hứng thú của bản thân; không nên chọn nghề mà bản thân không đủ điều kiện đáp ứng; chỉ chọn nghề khi đã có hiểu biết đầy đủ về nghề (điều kiện, môi trường, tính chất, khó khăn, thách thức…); không chọn nghề mà xã hội không có nhu cầu; chọn nghề đáp ứng được những giá trị mà bản thân coi là quan trọng và có ý nghĩa. PGS Nam cũng cho biết, thị trường lao động đang cần lao động trình độ cao đẳng khoảng trên 18%; lao động trình độ từ ĐH trở lên là 15,42%; lao động qua đào tạo là 25,36%; lao động có trình độ sơ cấp nghề và công nhân kỹ thuật lành nghề là 10,31%. Riêng đối với lao động có trình độ trung cấp, thị trường lao động đang cần số lượng lớn nhất là 30,52%. Trong khi đó, trình độ của người đi tìm việc dường như đang có độ vênh nhất định. Ví dụ lao động có trình độ ĐH trở lên đi tìm việc chiếm tới trên 66%; trình độ trung cấp chỉ chiếm trên 6%; trình độ cao đẳng là trên 16%.

Ngành nào mới hot?

TS Trần Đình Lý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TPHCM cho biết thí sinh phải trả lời được các câu hỏi trong vòng tròn hướng nghiệp, đó là phù hợp với nghề nào, học ngành nào để làm được nghề đó; chọn trường nào để học ngành đó nhằm đáp ứng được yêu cầu của nghề phù hợp. TS Trần Đình Lý cho rằng, cần xác định được các nhóm ngành nghề hot nhưng hot với ai, có phù hợp với năng lực sở trường của thí sinh hay không. Hiện nay nhiều thí sinh chăm chú vào tiêu chí của thị trường lao động nhưng quên mất năng lực sở trường của mình. Nếu không xác định được sở trường năng lực, các em dễ trở thành là một trong 6 trường hợp thôi học.

Phương thức xét tuyển của các trường hiện nay rất đa dạng. Nên nếu không có tính toán để có hiến lược, chiến thuật lựa chọn tốt sẽ dẫn đến những tình huống đáng tiếc. TS Trần Đình Lý lưu ý việc sắp xếp thứ tự nguyện vọng ưu tiên phải phù hợp với năng lực, sở thích của thí sinh.

Trong khi đó, ông Bùi Văn Linh, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nhân lực, Bộ GD&ĐT cho hay, cơ cấu sinh viên đầu vào - đầu ra đã có sự biến động khi khảo sát số liệu trong giai đoạn 2018 - 2020. Ví dụ như ngành Khoa học giáo dục và Đào tạo giáo viên, năm 2018 tuyển trên 27.000 sinh viên nhưng năm 2020 chỉ còn 21.000 sinh viên; nhóm ngành Sức khỏe năm 2018 là 11.000 sinh viên, năm 2020 đã tăng lên 23.000 sinh viên. Tình hình việc làm sau một năm tốt nghiệp của sinh viên cũng có những biến động. Theo ông Linh, nếu chia tỷ lệ này thành 4 mức thì chỉ có 3 ngành đạt được ở mức cao là Dịch vụ vận tải (89%); Nghệ thuật (85,4%) và Thú y (85,2%). Nhóm ngành Máy tính và Công nghệ thông tin lại ở mức trung bình khi chỉ có 73,6% sinh viên tốt nghiệp sau 1 năm có việc làm. Mức thấp có các ngành như: Môi trường, Pháp luật, Khoa học xã hội và Hành vi, Dịch vụ xã hội, Kinh doanh và Quản lý.

PGS Trần Thành Nam cũng chỉ ra 6 sai lầm của học sinh khi chọn ngành gồm: dựa vào duy nhất năng lực học tập; chọn nghề theo trào lưu; chọn nghề vì lý do kinh tế; chọn nghề được xã hội trọng vọng; dành ít thời gian để tìm hiểu nghề nghiệp; tư tưởng học gì cũng được miễn là đại học.

MỚI - NÓNG