Nhà văn Hồ Anh Thái |
Đầu những năm 1990, sau một thời gian nghiên cứu tại Ấn Độ, Hồ Anh Thái xuất hiện trở lại trên văn đàn với những chùm truyện ngắn độc đáo, hài hước mà thâm trầm: Người đứng một chân, Người Ấn, tiếng thở dài qua rừng kim tước, Cuộc đổi chác...
Từ đó một nguồn đề tài mới được khai thông với một văn phong khác lạ. Mới đây nhất, sau những tác phẩm được tìm đọc và gây tranh luận như Cõi người rung chuông tận thế, Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Mười lẻ một đêm... Hồ Anh Thái trở lại với đề tài Ấn Độ bằng tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Một nhà văn đã lựa chọn đề tài Ấn Độ tất sẽ nung nấu ý tưởng phục dựng hình ảnh bậc vĩ nhân và thời đại của Người. Cuộc trò chuyện với nhà văn Hồ Anh Thái cũng bắt đầu từ đề tài Ấn Độ.
Viết về Đức Phật - cái gánh tự đặt lên vai
Phật giáo được các nhà sư Ấn Độ đi theo các thuyền buôn truyền trực tiếp vào nước ta, có thể coi là sớm nhất ở vùng Đông Á, trước cả trung tâm Phật giáo Trung Hoa. Nhưng rồi sau đó là nghìn năm Bắc thuộc. Phật giáo nguyên gốc được truyền vào Việt Nam hầu như khó có thành tựu so với nguồn Phật giáo truyền gián tiếp qua Trung Hoa.
Lần đầu tiên tôi đến Trung Quốc, có cảm giác khá là gần gũi. Còn đến với Ấn Độ thì sao? Hăm hở lao vào mà tìm hiểu, mà học hỏi. Đúng là như lao xuống biển mà bơi. Càng bơi càng không thấy bờ. Mấy năm đầu lao vào hòa nhập, rồi một ngày bỗng hoảng lên.
Ấn Độ cho ta cảm tưởng, càng tìm hiểu lại càng không hiểu gì cả. Người làm báo chỉ cần đến một đất nước dăm bảy ngày, trở về kết hợp tài liệu và có thể viết một bài dày dặn. Còn tôi, ở Ấn Độ đến năm thứ tư mới dám viết truyện ngắn đầu tiên. Đó là truyện Người đứng một chân, rồi Người Ấn, khi tôi muốn lý giải tính cách Ấn Độ.
Dạo ấy anh đã viết về Đức Phật, trong một tác phẩm ngắn, Chuyện cuộc đời Đức Phật, giống như đọc kinh Phật rồi kể lại chuyện đời Phật theo lối kể của một nhà văn. Bây giờ đọc lại truyện kể này, thấy dường như đó là đề cương cho mảng chuyện về cuộc đời Đức Phật trong cuốn tiểu thuyết mới của anh vậy.
Đất nước Ấn Độ bao la đến mức người ta gọi đó là một tiểu lục địa. Sáu năm liền, tôi ba lô trên vai, ngang dọc khắp các miền địa lý, các miền văn hóa. Thích thì đi. Lúc ấy chưa nghĩ là mình sẽ chọn cái gì mà viết. Nhưng rồi ngấm dần. Và nghĩ rằng mình may mắn, mình có được cơ duyên. Trước tôi chưa có, sau tôi thì khó có nhà văn chuyên nghiệp nào ở ta có được cơ hội đắm mình trong cái đại dương văn hóa Ấn Độ đến mức ấy. Vậy là tôi tự đặt cái gánh ấy lên vai mình, phải viết, viết về Ấn Độ, viết về Đức Phật.
Tôi vừa nói đến cái duyên. Trong những chuyến tìm kiếm, khám phá nhiều địa danh của Phật giáo, tôi đã tìm đến Việt Nam Phật Quốc Tự ở Boddhgaya, nơi có cây bồ đề giác ngộ. Khi ấy chùa chưa xây xong, mọi thứ còn ngổn ngang, gặp thầy Huyền Diệu còn tưởng là người Nhật, mấy câu trao đổi đầu tiên phải nói bằng tiếng Anh.
Đến bây giờ thầy Huyền Diệu vẫn nhắc chuyện, nếu không có tôi “phát hiện” và viết bài trên báo Giác ngộ, báo Văn Nghệ, khiến Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước tìm đến chùa sau đó, thì Việt Nam Phật Quốc Tự vẫn còn lặng lẽ cho đến bây giờ, đúng như tâm niệm của thầy.
Tôi xin kể một chuyện khác: có Phật tử Việt Kiều ở Mỹ, một đời ao ước được đến viếng thăm cây bồ đề của Phật. Ông theo đoàn đi chiêm bái, nhưng vừa xuống sân bay Calcutta, ông đã phải vào bệnh viện cấp cứu. Đoàn đi thăm đất Phật mười ngày, đến khi quay lại Calcutta cũng vừa lúc ông nọ khỏi bệnh như không, lại thoăn thoắt cùng mọi người lên máy bay trở về Mỹ. Tức là có đi mà không có đến.
Có người đi cùng tôi trong một chuyến viếng thăm thánh địa này. Vào chính điện, như mọi người, anh giơ máy ảnh chụp tượng Đức Phật ở tư thế Người nhìn về hướng đông. Xong xuôi, khi anh về, tráng phim in ảnh, những tấm ảnh đều đẹp, riêng bức ảnh chụp tượng Phật thì hỏng, trắng lóa... Chuyện chỉ có thế, coi là ngẫu nhiên cũng được, mà coi là vô duyên cũng được.
Như vậy thì có thể coi là anh gặp nhân duyên. Anh đã viếng thăm hầu hết các thánh địa Phật giáo trên đất Ấn Độ mà không một lần bị lỡ dịp vì lý do này khác, đã chụp nhiều ảnh lưu giữ mà không cái nào bị trắng lóa. Rồi tác phẩm của anh viết về Ấn Độ được độc giả đón nhận, được dịch in ở Mỹ, ở Pháp (cuốn Behind the Red Mist và Aventures en Inde). Và bây giờ tôi có nghe nói Đức Phật, nàng Savitri và tôi cũng mới được một nhà xuất bản Mỹ đặt vấn đề dịch ra tiếng Anh.
Đúng là có chuyện ấy. Nhưng khi bàn đến việc chọn người dịch thì hơi khó khăn. Chọn được dịch giả người Mỹ biết tiếng Việt thì ông này không có kiến thức về văn hóa Ấn Độ, bó tay luôn. Như ta vừa nói với nhau, đến cả người Việt còn khó tiếp xúc văn hóa Ấn Độ nữa là. Cuối cùng, tôi đành phải đứng ra nhận, tự mà dịch lấy cùng với một ông bạn nhà văn người Mỹ. Công việc này sẽ lấy mất của tôi một năm trời. Đành vậy, tôi cũng muốn độc giả Âu Mỹ đọc cuốn sách này.
Giáo lý Phật giáo chạm đến mọi điều của đời sống
Anh có nghĩ rằng nhân vật Đức Phật của anh khó trùng hợp với hình ảnh Đức Phật của những người khác?
Nhân vật của tôi vừa giống vừa khác. Giống vì chúng ta đều có một mẫu số chung khi tiếp nhận kiến thức về Người. Khác vì tôi có thể tiếp xúc với nguồn tài liệu không giống bạn, trí tưởng tượng của tôi khác, tư tưởng khác và quan niệm thẩm mỹ... cũng khác.
Sáu năm trời trên đất Ấn Độ cho tôi cái may mắn lục tìm tài liệu, có những tài liệu cổ và quý hiếm. Mười mấy năm sau đó, tôi tham khảo được những tài liệu của các học giả nước Anh, nước Đức là những xứ mà ngành Ấn Độ học có thành tựu. Dần dần, tôi hình dung ra nhân vật Đức Phật của riêng mình và đã tái hiện trung thành với mình trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi.
Anh có cho rằng nhà văn phải tạo ra cơ hội bình đẳng cho độc giả, cả người chưa sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc tiếp xúc với văn hóa Ấn? Nói như vậy bởi vì có kiểu độc giả cầm cuốn sách lên là nhăm nhăm tìm một điều định sẵn, kết quả là tìm mà không thấy, vì thế cũng đánh mất cơ hội thấy được những điều khác.
Tôi tin rằng mỗi người khi đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ có một văn bản của riêng mình, khác với văn bản của chính tác giả, khác văn bản của những độc giả khác. Đó là một đặc điểm của việc tiếp nhận văn chương nghệ thuật.
Xin bàn đến một khía cạnh tương đối “nhạy cảm”. Nhìn chung giới trí thức Phật giáo tiếp nhận cuốn tiểu thuyết này một cách bình thản và ghi nhận một thành tựu văn học ở một đề tài khó. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng giá mà tác giả lược bớt yếu tố sắc dục thì đây sẽ là cuốn sách của mọi nhà.
Tôi không chối bỏ mong muốn tiểu thuyết này trở thành cuốn sách của mọi nhà, của mọi thế hệ trong các gia đình. Tôi tin rằng khi nào trong đời sống tâm linh Việt còn yếu tố Phật giáo, khi ấy còn có người đọc cuốn sách này. Vua Pasenadi lần đầu tiên diện kiến Phật cũng chấp vào bề ngoài non trẻ của Người mà không tin rằng đó là một bậc thầy lớn.
Ta là Phật tử, ta chấp vào cái áo đơn sơ của nhà sư thì không thấy được trí tuệ trong đầu của bậc thầy. Cầm cuốn sách lên, mới nghe nói rằng nó có sắc dục mà chối bỏ nó thì cũng là chấp nê, không đúng với tinh thần Phật giáo vậy.
Quả là trong tiểu thuyết có chạm đến sắc dục. Nhưng tôi thấy ở đây tác giả chủ ý không miêu tả cảm giác mà suy tư về sắc dục. Khó hình dung được khi viết về Ấn Độ mà nhà văn lại lảng tránh sắc dục, tác phẩm khi ấy sẽ chỉ là một phiên bản xơ cứng bất thành Ấn Độ. Xứ sở của Kama Sutra (Dục lạc kinh), khắp nơi đền chùa chạm khắc hình trai gái giao hoan, có lẽ phải là một nơi nghệ thuật dục lạc phát triển đến đỉnh như vậy mới là điểm xuất phát triết lý Trung Đạo của Phật, triết lý dục lạc dẫn đến khổ đau... Và cuộc đời đắm chìm trong dục lạc của Yasa, đặc biệt là Savitri, là một minh chứng sinh động cho chân lý của Phật.
Tôi vẫn nghĩ tính bao trùm của giáo lý Phật giáo rộng lớn đến độ chạm đến mọi vấn đề của đời sống. Bạn cứ thử đưa ra một vấn đề gì đó tưởng là mới mẻ mà xem, ngẫm nghĩ kỹ thì mới thấy là hơn 2.500 năm trước, Phật đã nói rồi.
Nhiều triết thuyết sau này cũng thừa hưởng ít nhiều của Phật giáo. Vậy trở lại với tiểu thuyết, không chỉ là chuyện dục lạc mà thôi, chuyện hận thù và báo thù của đạo sư Bà La Môn, của Savitri, chuyện yêu thương với đồng loại, với mọi chúng sinh... đều không ra ngoài vòng triết thuyết và giáo lý của Phật.
Mọi nhân vật đều có cơ hội bình đẳng
Có một cách đọc, trong đó người ta khó chấp nhận khi anh “dám” đưa vào cuốn sách về Phật một nhân vật nữ như nàng Savitri. Ngang tàng, nổi loạn, đối kháng với các giáo điều, nhưng đồng thời lại ôm đầy thù hận và khao khát báo thù, khao khát dục lạc. Chỉ riêng việc đặt nhân vật ấy vào trong cuốn sách đã có thể bị coi là báng bổ, là “giải thiêng” hình ảnh Phật. Người đọc trưởng thành chắc chắn không đồng tình với cách đọc này, nhưng dù sao, vẫn muốn biết quan điểm của anh.
Tôi viết tiểu thuyết, và trong tác phẩm, mọi nhân vật đều có cơ hội bình đẳng, khó mà nói là nhân vật nào không được quyền xuất hiện bên cạnh nhân vật nào. Còn chữ “giải thiêng”, tôi hiểu đó là từ demythologize, tức là xóa bỏ màu sắc huyền thoại bao quanh nhân vật, không phải chữ desecrate có nghĩa là xóa bỏ tính thiêng liêng.
Xuất phát từ sự hiểu nhầm ấy, một số người đã thấy phản cảm vì nghĩ rằng tác giả muốn “xóa bỏ sự thiêng liêng”. Một ít người khác thì cực đoan hơn, họ cho rằng phải giải thiêng mới có thể nổi loạn và tạo ra tác phẩm lớn.
Những mưu toan giải thiêng kiểu ấy trước các bậc vĩ nhân thường bị phá sản, giống như ngửa cổ mà ném cát lên mặt trời vậy. Họ cũng quên rằng rất nhiều tác phẩm trung thành với đề tài tôn giáo lại trường tồn hơn vô vàn những cố gắng “nổi loạn”.
Đọc sách của anh, nhiều người nghĩ rằng anh là một Phật tử từ trong cốt lõi.
Tôi thích phần triết thuyết của Phật giáo, tôi cũng thích phần triết học của các tôn giáo khác. Với tôi, bậc giáo chủ của các tôn giáo đều có sức hấp dẫn lạ thường và đều là những người thầy lớn- Phật cũng thường nói như vậy với các đồ đệ. Tôi thích đọc về các giáo chủ, nghiền ngẫm lý thuyết, từ đó mà cố hình dung ra các vị. Đấy là thái độ đối với lý thuyết tôn giáo, còn về thực hành thì... Thú thật tôi thường tránh đám đông, mà chùa chiền bây giờ đông người quá. Tôi cũng thường quên ngày rằm mùng một. Trong lòng vẫn tự an ủi: Phật tại tâm, Phật chứng giám.
Tôi lại nghe bạn bè anh nói rằng khi viết Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Hồ Anh Thái thực hành thụ giới trong một thời gian dài...
Chắc là họ đùa đấy, bởi vì khi viết, tôi chỉ có một mình, và không ai biết tôi làm việc như thế nào đâu. Nhưng cũng đúng là trong thời gian viết, tôi chủ động cách ly với mọi công việc, tắt hết điện thoại bàn và điện thoại di động, không tiếp xúc với bạn bè và đồng nghiệp, thực hiện một kỷ luật rèn luyện thân thể và lao động. Vừa nghiêm khắc vừa rất tự nhiên, thành ra không phải gắng sức và không tự làm khó cho mình.
Chắc chắn rằng sáu năm liền bôn ba trên đất Ấn Độ và ngót hai chục năm “bơi” trong cái đại dương văn hóa này đã để lại ảnh hưởng rất lớn không chỉ trong tác phẩm và cuộc đời anh. Anh có sẵn sàng chia sẻ điều này với mọi người hay không?
Khi mới đến Ấn Độ, tôi vẫn còn nóng tính lắm. Ỷ mình có chân lý, nhiều khi không chịu ai, đấu tranh với xung quanh, từ sếp cho đến ông lái xe trong cơ quan. Việc không chạy thì “trị” cả người bản xứ cho đến khi việc được làm đúng mới thôi.
Người Ấn rất tốt nhịn, cộng với ý thức đẳng cấp mấy nghìn năm khiến họ có lối sống khoan dung, bình yên, bất bạo động. Nên hiểu rằng tính cách Ấn hoàn toàn trái ngược với những vụ việc của các tổ chức ly khai, khủng bố, gây mất ổn định.
Rất tự nhiên, dần dà mình cũng thiền đi, và khi trở về Việt Nam, chất Ấn Độ đã ngấm vào tôi từ lúc nào. Hầu như tôi không nhận lời đăng đàn diễn thuyết, hoặc giao lưu với độc giả. Trước mọi sự bao giờ cũng tự dặn mình, không đôi co tranh cãi, không hơn gì nhau câu nói.
Quyền lợi chia bôi, nhường mọi người nhận trước. Người ta ghen ghét, đố kỵ, bịa đặt công kích mình hoặc làm ác với mình, cứ lấy sự ôn hòa mà đáp lại. Ôn hòa, cũng bởi vì tin vào điều nhà Phật nói: những người ấy trong đời tự họ đã và sẽ phải chịu luật nhân quả rất nặng nề rồi...
Trong đời sống riêng, anh có tiếp nhận được gì không từ triết lý phương Đông?
Tôi hài lòng với cuộc sống riêng của mình. Thành viên trong gia đình sống hòa hợp. Như Phật dạy thì bàn tay ta không thể nắm nhiều hơn một nắm lá. Biết đủ thì đủ, đời sống một con người cũng chẳng cần nhiều. Tham vọng và hiếu thắng chỉ đưa người ta sa vào chỗ rườm rà vướng bận một cách không cần thiết.
Xin cảm ơn anh.
Nguyễn Minh thực hiện
(Nguồn: tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 51, 2-2008)