Na ba năm ra hoa, chuối một năm trổ buồng. Vòng đời chuối rất ngắn. Khi buồng chuối già người ta chặt xong dấm, còn thân chuối thái nấu cám làm thức ăn cho lợn. Không ai chặt cây chuối chưa ra buồng để thái rau lợn bao giờ.
Nông thôn xưa nuôi con lợn cả năm, lớn được dăm chục cân, có con còi cọc nuôi mãi chỉ ba chục cân là hết nước. Lợn chậm lớn như vậy không phải giống thoái hóa mà vì thức ăn chẳng mấy chất lượng. Cám có khi giã gạo cho nhà dăm miệng ăn thì được bao nhiêu, chảo nấu to chừng trăm lít được vài ba bơ cám thì thức ăn lấy đâu ra chất. Hầu như cám cho lợn toàn chất xơ.
Sau này chăn nuôi phát triển người ta trồng thêm chuối tây (có nơi gọi là chuối lá). Chuối tây thân nhỏ, nấu cám không nhuyễn bằng chuối tiêu nhưng thiếu thì vẫn thái ra nấu cám được. Tiếp nữa xuất hiện giống chuối hột, thân to mềm, quả toàn hạt không ai ăn, nên người ta trồng cả bãi lấy cái ăn cho lợn. Chuối hột lớn cực nhanh, thân to bằng ba bốn lần chuối tiêu thành ra có thể chặt cây chuối khi bánh tẻ thì nấu cám càng ngon.
Thậm chí người dân còn biết trước khi giết mổ, tháng cuối chỉ chăn lợn với nồi cám chuối cho lợn sạch sẽ, bộ lòng ngon hơn giòn hơn!
Bên cạnh chuối là rau khoai lang. Khoai trồng lấy củ, còn lợn ăn thân lá. Người nhà quê xưa có hai câygắn bó như hai trợ thủ chủ lực cho đời sống là cây chuối và dây lang. Hai loài này, cây cho quả, dây cho củ còn thân lá làm thức ăn cho lợn. Nếu muốn làm đài tưởng niệm cho sự tồn tại của đồng quê tôi nghĩ chính là hai cây trồng chủ lực là chuối và dây khoai lang, còn hai con vật nuôi phải kể lợn và trâu là trung tâm thể hiện. Nhà quê xưa “làm nhà - lấy vợ - tậu trâu”là ba việc lớn để an cư. Con lớn ra ở riêng thì ngoài ba thúng thóc chia cho, bố mẹ nào cũng dành cho con đôi lợn bột lang hồng, là giống mỏng da chóng lớn nuôi lấy vốn. Nông thôn xưa, con trâu là sức kéo, con lợn là vốn liếng tiền nong một năm trông vào nó. Cái hũ tiền thôn quê là đấy, con lợn đất ống tiền cho trẻ con tiết kiệm bỏ tiền vào đó ý nghĩa cũng từ nguồn ấy.
Cho nên nuôi lợn cho ăn gì hãy hỏi người chăn nuôi chứ không ai đi hỏi nhà buôn, người làm chính trị hay đám thư lại cạo giấy.
Nông dân chăm lo cho lợn còn hơn nhà quan trông nom két sắt giữ vàng. Lợn vừa chê cám là chủ nhà đã rập rình cơn sốt. Nói thế để thấy cho lợn ăn gì người dân nuôi biết hơn các nhà soạn văn bản, nếu người đó xuất thân từ phố phường hoặc rời nông thôn từ quá sớm thì càng mù tịt.
Tôi không phản đối quản lý nhà nước đi đến kiện toàn thì tất cả phải vận hành theo hướng luật hóa. Việc đó là khoa học đúc lại bằng văn bản giấy tờ chứ không thể nói miệng. Nhưng lại có thành ngữ “bút sa gà chết”, sai một ly đi một dặm. Đợi sửa sai thì mất mấy lứa lợn, nếu Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn không sửa lại văn bản quái gở khi cấm lợn ăn rau chuối, cấm thỏ ăn cà rốt. Hơn tất cả sự hài hước và trào lộng về câu chuyện quy định thức ăn chăn nuôi. Nghe thế có người đùa rằng, hay là người ra văn bản không phân biệt được trâu với bò, lợn với dê chăng!
Văn bản càng lắm quy định thì càng thiếu, càng yếu. Nó cần có sự khái quát cao trên cơ sở tri thức chăn nuôi truyền thống.
Nếu có quy định về chuẩn thức ăn chăn nuôi thì hãy quan tâm chặt chẽ về thức ăn công nghiệp chế biến theo công thức dây chuyền hiện nay. Hãy chú mục vào đấy để đừng vì mục đích tăng trọng mà đưa chất kích thích độc hại vào thức ăn. Các nhà làm luật hoặc hướng dẫn khoa học hãy kiểm tra kĩ việc này.
Để kết thúc câu chuyện cấm lợn ăn rau chuối nghe đến tức cười này, tôi xin kể chuyện một lần lên Đồng Văn, Hà Giang hỏi chuyện “trồng cây gì nuôi con gì” thì bị một ông già quặc “Không biết trồng cây gì mà ông cha ta sống đến hôm nay à, còn phải đợi dạy”!
Khoa học gì, quy định gì, pháp lệnh gì thì cũng nên khảo sát kĩ trước khi hạ bút. Còn không, văn bản vừa ra đã thành trò cười rồi vội vã rút lại lâu nay đã quá nhiều bởi các chuyên gia bàn giấy không hiểu thực tế quen viết liều kí liều.