Hàn nho Nam bộ giải nghĩa từ ngữ gốc Hoa

TP - Khi thời có hẹn, lúc thì bất tử (tình cờ, bất ngờ) mỗi lần đụng ông bạn Cao Tự Thanh cùng khóa 17, thể nào ông cũng gây cho người cùng ngồi - chả hạn như người viết bài này - những băn khoăn về học thuật…

Đã kha khá những giấy mực của giới ký giả, phê bình về Hàn nho Nam bộ Cao Tự Thanh, nhà nghiên cứu độc lập, dịch giả cũng độc lập (ấy là cách nói chỉ người nghiên cứu tự do không thuộc biên chế nhà nước). Hơn 150 tác phẩm, công trình nghiên cứu, dịch thuật đã bầu nên cái chiếu ngồi (tôi định dùng từ ngất ngưởng nhưng cứ đắn đo?) độc đáo, riêng có không chỉ với làng nghiên cứu Nam bộ mà cả mặt bằng nghiên cứu giời Nam.

Rồi cứ lan man nghĩ đến khí chất ngang tàng thẳng thớm gần như mặc định mà thời nay người ta vẫn dùng từ chung là phản biện của dân Nam bộ. Cao Tự Thanh quê Long An.

Cuối năm lại xuôi Nam. Lại một cuộc nhậu nho nhỏ có kêu Cao Tự Thanh ghé.

Trong đám nhậu có lão bạn họ Huỳnh. Chuyện thường thôi. Nhưng một lão gục gặc “Ông họ Hoàng hả? Vô trong này mấy đời rồi?”. Bao năm nay đã mặc định đã cố hữu cái kỵ húy Hoàng thành Huỳnh rồi, nên tất thảy im lặng, đồng tình!

Nhưng bất đồ Cao Tự Thanh huơ tay “Trật lấc hết!”

Đoạn lão rành rẽ:

Hàn nho Nam bộ giải nghĩa từ ngữ gốc Hoa  ảnh 1

Hàn nho Nam bộ Cao Tự Thanh (bên phải) và tác giả bài viết.

Hiện tượng đọc chệch Tùng ra Tòng, Cương ra Cang chủ yếu phổ biến là ở miền Nam chứ không phải miền Bắc. Thêm nữa, tra trong sách vở tàng thư các, chẳng có tài liệu, bằng chứng nào vào thế kỷ 16 18, thần dân Triều Lê Trung hưng bị bắt buộc phải kiêng húy các chúa Trịnh cả! Ngay các bộ chính sử được biên soạn bởi các sử gia nhà Trịnh cũng viết thẳng tên các chúa Trịnh, từ chúa tiên khởi Trịnh Kiểm trở đi. Khác với tam tòng, tam cang (chữ Trịnh Tùng, Trịnh Cương) được viết với bộ mộc. Trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, cụ đã thống kê và mặc định rằng, tất cả các chúa Trịnh đều có tên viết với bộ MỘC. Và tất thảy các chúa Nguyễn đều có tên viết với bộ CHẤM THỦY!

Cao đàm khoát luận kiểu như “chém gió” đến đây, Cao Tự Thanh khoát tay vẻ chắc khừ rằng, muốn hiểu tường tận có đầu có đũa thì cũng phải thông rành chữ Hán!

“Các ông biết đó, Hán tự có nhiều chữ “hoàng” cùng âm nhưng với cách viết và ngữ nghĩa khác nhau”. Rồi lão cụ thể thêm, rằng không phải chữ “hoàng” nào cũng chuyển âm thành “Huỳnh”. Cũng như chả ai nói kinh hoàng (trong thần thành hoàng) thành kinh huỳnh thần thành huỳnh cả. Chữ đọc chệch âm ra Huỳnh (họ Huỳnh) là chữ hoàng (vàng) lại chẳng thể dùng với tên Nguyễn Hoàng - tên ông thái tổ của nhà Nguyễn này là hoàng (vàng) cộng với bộ chấm thủy.

Nhiều năm đèn sách tra cứu cùng tầm nã, tôi đi đến kết luận mà không sợ sái, sợ sai rằng, do hoàn cảnh lịch sử địa lý mà xuất hiện mà phát sinh việc biến âm dựa trên quy luật ngữ âm. Hiện tượng đọc chệch hay là chuyển âm không thuộc phạm trù kiêng kỵ húy học mà là một vấn đề ngôn ngữ học trên hai phương diện PHƯƠNG NGỮ và NGỮ ÂM!

Nhóm di thần phản Thanh, phục Minh như Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên… dạt sang phía Nam tị nạn chính trị được chúa Nguyễn cho vào khai phá đất Biên Hòa, Mỹ Tho, Miền Đông và miền Trung Nam bộ cuối thế kỷ 17. Sự kiện đó đã xuất hiện một đợt tiếp xúc ngôn ngữ Việt Hoa có quy mô và phạm vi rộng lớn.

Dù nhiều người đã kết hôn với người Việt và ở Việt Nam lâu đời, nhưng họ vẫn giữ tiếng nói, phong tục tập quán riêng của họ và tạo thành một cộng đồng cư dân riêng, phân biệt với những người Việt bản địa. Nam Kỳ đất đai rộng, cư dân thưa thớt; các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn đã có chính sách coi những người Hoa này là những người Minh Hương (gồm cả những người lai bố Hoa, mẹ Việt) thuộc cộng đồng cư dân Việt.

Đây mới thực sự là lý do làm phát sinh hệ thống những Huỳnh, Phước, Võ… trong cách đọc Việt Hán ở Đàng Trong mà đặc biệt là địa bàn từ Quảng Nam đến Nam bộ.

Đặc biệt phải nói tới sự du nhập của cách đọc chữ Hán theo Minh âm, Thanh âm mà kết quả đã tạo ra hàng loạt biến thể trong cách đọc từ Hán Việt như Chính- Chánh/ Kính- Cảnh/ Tính - Tánh/ Vũ- Võ/ Phù- Phò/ Thụ- Thọ/ Uy - Oai/ Súy- Soái/ Thụy - Thoại/ Phúc- Phước/ Trọc- Trược/ Trọng- Trượng… trên địa bàn phía Nam mà nhiều người vẫn lầm tưởng là vì lệ kiêng húy thời phong kiến.

Về mặt từ vựng phương ngữ Nam Bộ có nhiều khác biệt so với tiếng Việt ở Trung và Bắc. Các yếu tố Hoa sắm vai trò quan trọng trong việc dẫn tới sự khác biệt ấy. Các ông đọc Gia Định thành thông chí viết năm 1821 của Trịnh Hoài Đức thì rõ. Cụ khẳng định và ghi nhận người Nam bộ chuyện trò hàng ngày thường dùng chen từ Hoa và Khmer. Nhờ cụ thống kê hộ, ta mới biết những từ Hoa như xá (vái lạy) mỳ (miến) một món ăn làm từ loại bánh tráng mỏng là biến âm từ bạc bính. Cắc (giác, đơn vị tiền tệ bằng phần mười của đồng), Hên xui (hạnh tai- may rủi), Tía (cha, bố), Tiệm ( điếm- quán bán hàng), Ké (ký- nhờ vả- ăn ké), Lẩu (Lô- cái lò, món canh), Sủi cảo (thủy giảo- thịt vo viên ăn với nước), Há cảo (hà giảo- thịt tôm vo viên), Xập xám (thập tam- một lối chơi bài mười ba lá), Xịn (tân- mới, tốt như mới), Xíu (Xỉu bị biến âm tức tiểu- nhỏ). Xỉu (Hưu, tình trạng ngất như đã chết), Xỉn (tình trạng say rượu) vv…

Cần lưu ý, khi sử dụng mảng từ phương ngôn Nam Bộ này vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc ngữ pháp tiếng Việt. Chẳng hạn người Việt nói, quần áo xịn, ăn ké, tiệm trà chứ không nói là xịn quần áo, ké ăn, trà tiệm. Ở đây các từ Ké, Xịn, Tiệm mang các sắc thái giá trị khác với Ký, Tân, Điếm trong mảng từ Việt Hán. Chúng đã được tháo rời khỏi các tổ hợp cố định kiểu như Tân thư/ Ký sinh/ Tửu điếm và được sử dụng như Mới/ Nhờ/ Quán hàng trong tiếng Việt… Chẳng hạn trong phương ngữ Nam bộ thì nhỏ xíu khác hẳn với nho nhỏ. Từ Nhẩm chấu (Ẩm tửu- uống rượu). Có lẽ vì được nói- phát âm với chất giọng say rượu nhừa nhựa nên đã bị biến âm thành từ Nhậu.

Phương ngữ Nam bộ còn dung nạp khá mau lẹ dễ dàng một số yếu tố phong cách đặc sắc của ngôn ngữ và văn hóa Hoa. Có cái câu trong Tam quốc, Lưu Bị khen Triệu Vân gan dạ nguyên văn là “Toàn thân đô thị đởm” (Toàn thân đều là mật) đã được người Việt hóa thành “Gan cùng mình”. Rồi thành ngữ của người Hoa “Cấm nhược hàn suyễn” (Sợ sệt như con ve mùa lạnh) sang đến Nam bộ được người Việt hóa thành “sợ xếp cánh ve” hoặc “sợ xếp ve” vv…

Xôm tụ phong phú trong đời sống sanh hoạt dân dã bình dị, phương ngữ Nam Bộ dần dà đàng hoàng trong vị thế báo chí, văn chương.

Hơi bị thú vị là nhiều nhà văn nhà báo Lục tỉnh đầu thế kỷ 20 đã sử dụng một cách thuần thục tự nhiên những từ Hên xui/ Tàu hủ/ Hủ tíu/ Tiệm nước/ té xỉu/ nhỏ xíu… trong các tác phẩm văn chương báo chí của mình.

***

Cứ thế thoạt đầu ngỡ chuyện bao đồng tào lao. Nhoằng cái, na ná như một hội thảo ngôn ngữ chứ chẳng chơi? Lại phải gọi thêm vài thêm vài xị rượu nữa.

Bất ngờ một ông hỏi như vặn lão họ Cao.

Thế sao dân Nam bộ thường đọc là “Hớn” thay cho Hán? Như “Hớn cao tổ” như “Hớn Sở tranh hùng”?

Đến đây lão Cao thò tay sang cổ tay ông bạn lật ngó đồng hồ, cười khùng khục rồi mồi một điếu thuốc mới (lão này vẫn tật hút thuốc khủng khiếp như 40 năm trước). Đoạn lão thủng thẳng “bận sau kiếm chai rượu mới rồi “oa” nói cho mà nghe”!

Hơi chối và tức anh ách. Nhưng biết làm sao? Hình như cái nghề cái trò này việc này lão là thứ “tiên sư” chánh hiệu chứ chả phải giỡn?

Như lúc chia tay, lão lại bật mí như trêu tức hướng vào bàn nhậu rằng, các ông có biết sao dân Nam bộ lại có cái đại từ nhân xưng “Oa- Qua” nghe khá rổn rảng không?

Thú thực qua vài cơn hoang mang khi chuyện trò với lão bạn già kiêm học giả Cao Tự Thanh, tôi đành trân trọng xếp những cơn cớ gây nên sự hoang mang ấy như một thứ dị bản để người đọc bài này tham khảo!

Bình luận