Đảo mai vàng

TP - Anh xuống thuyền. Chiều cuối năm thong thả, nắng vàng nhẹ nhàng kéo một vệt mỏng dài trên mặt biển làm thành một luồng nước màu tím phớt trông thật dịu dàng, và lạ.

Anh xuống thuyền. Chiều cuối năm thong thả, nắng vàng nhẹ nhàng kéo một vệt mỏng dài trên mặt biển làm thành một luồng nước màu tím phớt trông thật dịu dàng, và lạ. Lần đầu tiên anh thấy biển có màu này, nó làm anh thoáng chút bâng khuâng, màu tím (đậm hay nhạt) luôn khiến người ta xao xuyến. Người phụ nữ ngồi bên cạnh anh đang ngắm nghía một chậu cây, những đóa hoa to, màu vàng chanh hơi chói, nhưng những chiếc lá xung quanh nó có màu xanh nhẹ, chen lẫn những chồi nâu nhạt trông rất đáng yêu. Chị ta nhìn anh và nói bâng quơ, không phải là giải thích cho anh mà như nói một mình vì anh đâu có hỏi: “Không biết hoa gì, thấy lạ mua về chơi Tết”.

Những người đàn bà ngồi phía mũi thuyền chuyện trò sôi nổi, làm nên chuỗi âm thanh lào rào hòa với sóng dập dềnh vào mạn thuyền và tiếng gió bên tai, khiến anh liên tưởng đến một bản nhạc mà ngày xưa người ấy chơi guitar rất hay. Anh nhớ ở đoạn thứ ba có một nốt giáng, nó như bước chân sáo vô tư đang tung tăng bỗng khựng lại, và nếu những ngón tay không lướt nhanh thì có lẽ giai điệu sẽ rơi xuống vực sâu. Hồi đó, mỗi lần nghe người ấy chơi đến đoạn này, không hiểu sao anh luôn có cảm giác hồi hộp.

Vài người đàn ông ngồi túm tụm quanh anh lái tàu, họ nói về chuyện cúng ghe ngày mai - mùng Một Tết... Họ là dân ở đảo, qua thành phố có chút việc gì đó rồi ai cũng vội về. Chỉ mình anh là khách.

Đảo mai vàng ảnh 1

Minh họa: Đỗ phấn

Anh hỏi người phụ nữ bên cạnh, ghe từ đảo sang phố chuyến trễ nhất mấy giờ? Người phụ nữ nhìn anh không trả lời mà hỏi lại: “Anh qua đảo chơi?”. Anh gật đầu. “Chuyến cuối cùng là 8 giờ tối”. Ngừng một chút chị nói thêm: “Giờ đó bọn thanh niên mới bắt đầu qua phố chơi giao thừa”. “Rồi sao về?”. “Tụi nó thuê ghe riêng hai ba giờ sáng về. Giao thừa bên phố rộn ràng chớ đảo im lìm có gì mà chơi ngoài nhậu nhẹt, karaoke, đánh bài!”.

Gió lộng, phần phật. Anh sửa lại cái mũ. Anh hết nhìn mặt biển xanh thăm thẳm rồi nhìn xuống bên dưới và đoán độ nông, sâu của nó theo màu của mặt nước. Một chiếc ca nô lướt qua nhanh, sóng ùa đập vào mạn thuyền tung bọt trắng xóa tạo thành loạt âm thanh xạc xào vỡ vụn. Anh hướng nhìn về phía đảo, nhà cửa hiện ra rõ hơn. Đây là đảo gần đất liền nhất, chỉ mất khoảng 15 phút cho một chuyến tàu, nhưng thời gian chờ thì lâu vì thường lái tàu còn đợi người nọ người kia. Họ quen thuộc nhau như người nhà.

Bến vắng. Không có cảnh ồn ào, chộn chạo, rộn rịp trên bến dưới thuyền như ngày thường mà thay vào đó là tiếng nhạc những bài hát xuân vui tươi vang lên ở một vài ngôi nhà. Bến tàu sạch sẽ. Trên mặt nước ghe thuyền về đậu đầy san sát. Anh giơ máy hình lên và bấm vài kiểu, anh tiếc đã không đem theo Flycam. Với cảnh này, bay mới đã. Ánh sáng buổi chiều trong và dịu sẽ cho những tấm hình phớt lên mặt biển một lớp màu vàng mỏng tự nhiên; và bên dưới, trong vòng cung tròn, trên mặt nước xanh chi chít tàu thuyền lớn nhỏ, chỗ này xếp ngay ngắn, chỗ kia lô xô, rời rạc; chỗ nọ những chiếc thúng như những mắt xích đứt đoạn... quá đẹp không cần chỉnh sửa. Chỉ duy nhất chiều cuối năm mới thấy cảnh ghe tàu về đậu đầy trên mặt biển như thế này. Vùng sông nước nào cũng vậy.

Ngôi chợ bình thường luôn đông đúc cảnh chen lấn cá rau, mua bán giờ vắng vẻ và sạch. Một hàng trái cây còn nán lại, một người đang loay hoay dọn dẹp. Có lẽ trễ nhất là mùng Ba chợ sẽ họp trở lại khi mà mùng Hai các ghe thuyền nhỏ đánh bắt gần bắt đầu ra khơi, mang theo hy vọng một năm mới cá nặng, lưới đầy. Là anh nghĩ vậy.

Chân anh bước nhanh theo con đường bê tông, là con đường chính của đảo như một chốn về quen thuộc dù đã mười lăm năm rồi anh mới trở lại. Hồi ấy nhà cửa không san sát chật chội như bây giờ tuy có đường bê tông sạch sẽ dễ đi nhưng lại thấy hơi bí. Anh nhắm mắt, hít một hơi thật sâu. Qua hai khúc quanh nữa sẽ thấy một ngôi nhà. Tim anh bỗng dưng đập mạnh.

Bước chân anh chậm lại khi ngang qua một tiệm làm tóc, các bà các cô đang ngồi làm đẹp và chờ làm đẹp nói cười rôm rả. Anh nhìn vào tiệm. Một gương mặt khá xinh nhìn ra và tự nhiên cười tươi với anh. Chỉ là cái cười xã giao khi thấy có người lạ trên đảo trong một chiều cuối năm. Anh nháy mắt lại với cô rồi cười theo. Có tiếng ai đó: “Người quen hả Lan?”. Cô tên Lan trả lời: “Quen đâu mà quen, mấy bà cứ thích hóng hớt drama, tưởng tượng đủ thứ”. Đám phụ nữ cười to làm anh thấy mặt mình nóng ran liền sải bước nhanh.

Hết một khúc quanh, chỉ còn một cái ngoặt nữa là đến ngôi nhà ấy. Tự nhiên anh thấy bồi hồi. Những ai còn ở đó?

Người đàn ông đứng trước một con hẻm nhìn anh hơi có chút tò mò. Anh cảm thấy mình cần phải nói chuyện với ai đó để trấn tĩnh trở lại (mà anh cũng không biết tại sao mình lại thấp thỏm). Anh kiếm câu chuyện làm quen, lơ đãng nghe câu được câu mất.

“Chiều ba mươi là không còn chiếc ghe nào ngoài khơi. Rồi tùy theo mùa, biển giã có cá hay không nhưng từ mùng Bốn đến mùng Sáu các tàu nhỏ, đánh bắt gần là đi hết. Những chiếc tàu lớn đánh bắt xa như Phú Quốc, Kiên Giang, Côn Sơn…, còn phụ thuộc thời tiết, thường khoảng mùng 8, mùng 10 mới ra khơi. Đánh bắt nơi nào thì bán nơi đó. Thường họ đi từ tháng Giêng đến tháng Tư, hết luồng cá về nhà nghỉ vài ngày và đầu tháng năm đi đến Tết mới về. Nhiều người không đi tàu về mà gửi tàu thuyền nơi nào đó rồi đi đường bộ hay máy bay về nhà. Ủa, mà anh ở đâu qua đây vậy?”.

Anh cười giả lả, nói đi loanh quanh ngắm đảo chiều cuối năm.

Một nhóm người đàn ông đang ngồi ở mấy cái bàn ghế thấp uống nước trà chuyện vãn chờ... Tết. Anh đứng lại cùng nhìn ra biển với họ. Biển kết nối giữa lạ và quen. Đa phần họ là dân ở đảo từ thời cha sinh mẹ đẻ. Một người kể với anh rằng, ngày xưa đảo thanh bình, yên tĩnh lắm, trời trong xanh, thời tiết trong xanh, một miền tuổi thơ có đất rộng, đảo rộng, suốt ngày chạy nhảy hết thả diều, bắt bướm rồi ào xuống biển hụp lặn…

Ký ức đổ về như thác, anh không thắng lại được.

Ngôi nhà ấy tọa lạc nơi cao nhất của đảo, anh nhớ như in, kiến trúc cổ ba gian hai chái, cột kèo gỗ lên nước bóng loáng, cái trường kỷ gian bên, bộ bàn tròn gian giữa, bộ bàn chữ U gian bên... Phía trước có một cây mai thật to, tuổi nhà trăm năm hơn. Nhớ người ấy kể với anh rằng, thời ông cố ông sơ bị bão đánh dạt vào đảo này, cầm cự bằng cách bắt cá, uống nước giếng mà sống. Cái giếng ấy còn giữ đến bây giờ, nước trong nhưng không ai dùng nữa chỉ để làm di tích.

Là đặc ân của Thượng đế khi mà đoàn ghe năm chiếc ra khơi năm đó chỉ mình ghe của ông cố ông sơ người ấy sống sót. Đặt chân lên đất liền, những người thoát nạn đã chắp tay quỳ xuống, ngước nhìn lên trời mây trắng rồi úp mặt xuống nền cát mịn màng, vô vàn êm ái. Tạ ơn đấng tối cao đã ban cho con người sự sống.

Trời thương nữa khi quanh đảo cá nhiều vô kể, một đêm thả lưới là sáng mai đầy ghe, chèo qua phố bán, tạo dựng đời sống mới, thế hệ này sang thế hệ khác... Thời anh ở đây là giai đoạn vàng son của đảo, tôm cá, hải sản cung cấp dư dả cho thành phố. Đất lành chim đậu người đổ về đảo ngày càng nhiều. Nhưng ngôi nhà cổ vẫn không thay đổi khi mà con cháu ngày càng đông lên. Cất thêm nhà chứ dứt khoát không ai được xâm phạm từ đường.

Anh làm công tác giám sát xây dựng trạm điện, kéo đường dây. Anh nhớ con đường nhỏ dẫn lên đồi cát rộng dày đặc cây mai. Mai mọc khắp nơi như cây dại, trên ụ, quanh bãi gò, bờ bụi... Cô kể với anh rằng, ông cố ông sơ nhất quyết không cho ai chặt mai đem về nhà chưng Tết mà mỗi nhà phải tự trồng một cây mai, vừa lấy bóng mát lại có hoa đẹp chơi Tết. “Đảo mai vàng” là tên ông nội cô đặt để nói về rừng mai vàng đẹp hoang vu mà rực rỡ, sang trọng, thánh thiện trên đồi cát đầy nắng và gió mỗi khi xuân về.

Anh nhớ những đêm trăng sáng, bên thềm nhà ông nội cô tiếng đàn tranh của ba cô hòa với tiếng guitar của cô. Giai điệu đẹp tuôn chảy không dừng. Không ai buồn ngủ giữa đêm trăng đẹp và khung cảnh tuyệt diệu như vậy! Anh và hai người nữa, cảm giác mọi người như nín thở trong không gian của âm nhạc có tiếng sóng biển vọng nhẹ lên từ dưới kia.

Bước chân anh qua một khúc quanh nữa hồi nào mà anh không chú ý bởi dòng suy nghĩ cứ miên man không dứt, chuyện này chuyện kia. Và rồi, tiếng đàn của cô bị khựng lại ở nốt giáng, đoạn thứ ba. Ngày vui qua mau. Công trình hoàn tất, anh không còn lý do gì ở lại đảo nữa. Anh bỗng nhớ lại cái mím môi thật chặt và đôi mắt như có ngấn nước: “Anh không nghĩ mình để quên lại đảo thứ gì sao?”. Anh lắc đầu. Thời tuổi trẻ, con người ta thường có nhiều nông nổi, dại khờ và cả sự ngạo mạn ngu ngốc, suy nghĩ thấu đáo là điều xa xỉ!

Hai tháng sau anh nghe từ một người bà con của cô, tin cô lấy chồng, sau đó có con trai. Nghe kể, trước đó gia đình cô có chuyện không vui, ông bà nội thở dài, mẹ cô thẫn thờ nhìn con gái xinh đẹp một lần lầm lỡ. Bà biết rõ người ấy, nhưng tìm làm chi khi người ta quyết dứt áo ra đi. Đời chẳng ai ép được ai, tình yêu càng không thể. Càng cố níu càng mất. Tìm một mối lương duyên là giải pháp tốt nhất khi cô giáo trường cấp một nằm trong diện quy hoạch lên hiệu trưởng, và còn danh dự gia đình nữa.

Anh sống không yên trong sự giày vò day dứt, nhưng không hiểu sao khi ấy anh luôn có cảm giác sẽ không hạnh phúc nếu về chung nhà với cô. Cuộc sống có những điều chẳng thể lý giải được. Và khi cuộc hôn nhân của anh tan vỡ là lúc anh hiểu ra, tuổi trẻ luôn có những ý nghĩ điên rồ, vô lý để lại ân hận trăm năm. Rồi anh cũng bỏ thành phố biển mà đi.

Hôm anh qua đảo là một ngày rất buồn sau đám tang của mẹ anh và vợ anh thì đang ở nước ngoài. Một mình, cũng buổi chiều, anh xuống tàu trong vô thức. Anh không gặp được cô, tất nhiên rồi, trong mắt cô, anh là kẻ vô lại. Anh đi qua trường cô dạy, hàng cây phượng trong sân trường lác đác hoa chuẩn bị vào hè, tiếng ve râm ran, ít đốm nắng lỗ chỗ trên sân trường vì tàn phượng dày và rộng quá. Có tiếng kẻng ra chơi, học trò túa ra ồn ào, sân trường thành hóa chật.

Ngôi nhà có những bậc cấp đi lên với hai hàng hoa đỏ, vàng được sắp xếp một cách rất ý tứ. Tàn cây mai to ôm trùm gần hết khoảng sân. Hoa vàng rải mỏng trên thềm giếng. Trên cây, hoa rỡ trong nắng chiều và lũ ong còn rì rì nấn níu lượn lờ. Điều này thật lạ vì thường ong chỉ đến khi mai bung cánh mãn khai vào sáng sớm.

Anh nhìn vào bên trong chỉ thấy thấp thoáng mái ngói nâu, cánh cửa khép hờ bị che khuất bởi loạt chậu hoa phía trước nhà. Anh hình dung bên trong, sau giàn cửa gỗ, mọi thứ tinh tươm: bình trà, khay ly tách, mứt bánh trên bàn gian tiếp khách, đồ đồng trên bàn thờ gian giữa sáng choang và cổ bồng cao ngọn trái cây, sẵn sàng cho năm mới mà anh đã từng đến chơi vào một cái Tết thời tuổi trẻ.

Anh giật mình khi nghe tiếng đàn guitar từ trong nhà, không nhầm lẫn được giai điệu đó, những nốt nhạc quấn quýt nhau thành chuỗi âm thanh lào rào của một cơn mưa mùa xuân xưa; nhưng tiếng đàn bây giờ trẻ trung, mạnh mẽ và tươi mới. Anh đứng lại cố chú ý nghe đoạn thứ ba và giật mình khi nốt giáng được lướt qua một cách nhẹ nhàng, dễ chịu, đầy bao dung; nó khiến anh có cảm giác như vừa chạy hết con đường dài sỏi đá hai bên là rừng cây khô khốc thì gặp một trảng cỏ xanh, dịu dàng và êm ái.

Anh khá sốc khi động cát hoa vàng cuối con đường không còn nữa mà thay vào đó là một khu resort có lối dẫn vào trang trí khá trẻ trung, vui mắt. Anh theo con đường lên dốc, những ngôi nhà gỗ nhìn ra biển sơn màu hơi sặc sỡ ngăn cách nhau bởi hàng rào thấp, trên cỏ mịn có lu nước với cái gáo dừa, vài cây hoa hồng, vàng, đỏ... Anh đi đến tận cùng, những tảng đá thật to thiên nhiên xếp lên chồng nhau hay nằm rải rác chắn ngang. Không một cây mai nào.

“Đảo mai vàng” chỉ còn trong ký ức.

Theo một lối mòn nhỏ anh xuống bãi cát. Có vài ghế đá sắp xếp rải rác. Anh ngồi trên ghế đá nhìn ra biển. Sóng vỗ nhẹ vào bờ, biển chiều xanh êm ả, xa xa những chiếc thuyền neo đậu dập dềnh, bềnh bồng trên mặt nước, anh thấy đầu óc mình trống rỗng.

Tuy nhiên, khi anh nhắm mắt lại, một khung trời đầy hoa mai vàng chói trên cát trắng. Hương mai thoảng trong gió kín đáo, thanh tao, quý phái. Anh nằm dài trên đồi và nghe gió hát, hòa trong giai điệu của cơn mưa xuân nhẹ nhàng, đều và chậm. Hình như ngón tay cô vừa lướt qua nốt giáng, trơn tru và điềm tĩnh.

Tuổi trẻ qua rồi, qua rất lâu rồi!

Bình luận