Công thư 1958 không đề cập Hoàng Sa, Trường Sa

TP - Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho lãnh đạo Trung Quốc năm 1958 không đề cập đến Trường Sa và Hoàng Sa; chính quyền Bắc Việt Nam khi đó không thể cho Trung Quốc thứ không thuộc về mình. Vì thế, việc Trung Quốc viện vào công thư đó để khẳng định Hoàng Sa thuộc về họ là không có cơ sở.
Ông Lê Hải Bình, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao đang trả lời báo chí chiều ngày 23/05/2014. ảnh: Như Ý

Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, khẳng định như vậy trong cuộc họp báo quốc tế chiều 23/5 về tình hình biển Đông. Công thư không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ tán thành khu vực 12 hải lý của Trung Quốc. Hoàng Sa và Trường Sa khi đó nằm dưới vĩ tuyến 17, khu vực do Việt Nam Cộng hòa quản lý, phù hợp với Hiệp định Geneva 1954.


VietnamNet:
Xin cho biết giá trị pháp lý của công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng?

Ông Trần Duy Hải: Đó là văn bản ngoại giao, có giá trị pháp lý với những vấn đề nêu trong đó. Việt Nam tôn trọng 12 hải lý của Trung Quốc, nhưng công thư đó không đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị của công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Khi đó, Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa theo Hiệp định Geneva 1954. Bạn không thể cho người khác những gì bạn không có. Công thư không có giá trị công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa.


Pháp luật TPHCM:
Theo quan điểm Việt Nam, Hoàng Sa và Trường Sa có phải quần đảo tranh chấp hay không? Trung Quốc nói rằng giàn khoan nằm trong vùng lãnh hải 12 hải lý. Phạm vi này có áp dụng với các hòn đảo khác của Trường Sa và Hoàng Sa không?

Ông Trần Duy Hải: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử pháp lý khẳng định chủ quyền đối với Trường Sa và Hoàng Sa. Nhưng Hoàng Sa bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm vào năm 1974. Sau đó, ông Đặng Tiểu Bình nói hai nước có bất đồng về Hoàng Sa và cần đối thoại để giải quyết. Việc này được ghi lại trong Bị vong lục 1988 và sau đó được đăng trên Nhân dân Nhật báo (của Trung Quốc). Vì thế, Trung Quốc nói rằng, vị trí mà họ đặt giàn khoan dầu không có tranh chấp là đi ngược lại với tuyên bố của lãnh đạo cấp cao của họ.


Bà Nguyễn Thị Thanh Hà - Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế (Bộ Ngoại giao)
: Quan điểm chính thức của Nhà nước là áp dụng Luật Biển có hiệu lực từ 1/1/2013, trong đó quy định việc xác định chủ quyền các vùng biển, phạm vi hải lý tuân thủ theo đúng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Nếu xét theo UNCLOS, chỉ có các đảo luôn nổi, thích hợp với đời sống con người, có đời sống kinh tế riêng thì mới có lãnh hải tối đa 12 hải lý.

Phòng họp báo quốc tế về tình hình biển Đông chật kín phóng viên trong nước và quốc tế. Ảnh: Như ý

Có thể kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế


Dân Việt:
Thủ tướng Việt Nam đã nói đến khả năng có hành động pháp lý đối với Trung Quốc. Nhà Trắng cũng đã lên tiếng ủng hộ. Việt Nam có chuẩn bị gì cho khả năng này để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hà: Với tư cách thành viên Liên Hợp Quốc và UNCLOS, Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS. Việc sử dụng các biện pháp hòa bình bao gồm cả khả năng đưa ra các tòa án quốc tế. Việc sử dụng các biện pháp hòa bình, trong đó sử dụng cả các cơ quan tài phán quốc tế, phù hợp với luật quốc tế. Sử dụng biện pháp pháp lý tốt hơn để xảy ra xung đột vũ trang. Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất kỳ khả năng đấu tranh hòa bình. Với tư cách cơ quan tư vấn của Chính phủ, chúng tôi có trách nhiệm chuẩn bị tất cả tư liệu cần thiết.


VnExpress:
Chúng ta đang kiên trì các biện pháp hòa bình, nhưng trong thời gian tới có biện pháp kiên quyết hơn hay không?

Ông Trần Duy Hải: Thủ tướng cũng đã trả lời trong cuộc họp báo ở Philippines rằng, Việt Nam sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình. Thủ tướng khẳng định, nếu Việt Nam là nạn nhân thì chúng ta cũng phải tự vệ. Chúng ta sẽ dùng mọi biện pháp để bảo vệ chủ quyền.


Dân Trí:
Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao, tính từ đầu tháng 5, Việt Nam đã có 20 cuộc giao thiệp ngoại giao với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc vẫn chưa chịu rút giàn khoan. Thủ tướng khẳng định không đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển vông. Đã đến lúc quá mức giới hạn kiềm chế của Việt Nam chưa? Xin cho biết quan điểm về 16 chữ vàng giữa hai nước?

Ông Trần Duy Hải: Vấn đề chủ quyền lãnh thổ rất thiêng liêng với Việt Nam, không gì có thể đánh đổi. Vàng rất quý, nhưng độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ quý hơn vàng.

ASEAN và cả thế giới ủng hộ Việt Nam


VOV:
Xin ông Lê Hải Bình (Người phát ngôn Bộ Ngoại giao) bình luận về việc Trung Quốc nói Việt Nam hành động khiêu khích, đâm vào các tàu chấp pháp của họ? ASEAN đến nay mới chỉ có một tuyên bố chung trong Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 24. Sắp tới, Việt Nam sẽ làm gì để tranh thủ sự ủng hộ của ASEAN để giành lại chủ quyền đối với Hoàng Sa?

Ông Ngô Ngọc Thu - Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam: Trong các cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, họ đưa thông tin cáo buộc Việt Nam khiêu khích, sử dụng tàu hoạt động trên biển để đâm va vào đội tàu bảo vệ giàn khoan của họ. Đây là thông tin sai lệch, vu cáo. Thực tế hoạt động trên biển, thời kỳ cao điểm là ngày 20/5, họ sử dụng 137 chiếc tàu, trong đó có nhiều tàu chiến. Họ sử dụng súng phun nước, tạo sóng âm tần ảnh hưởng đến thính giác, sử dụng đèn pha công suất lớn chiếu vào tàu Việt Nam, tiếp tục đâm va, ngăn cản tàu Việt Nam thực thi pháp luật trên biển. Việt Nam không sử dụng súng phun nước, vòi rồng, chỉ dùng loa tuyên truyền yêu cầu Trung Quốc chấm dứt xâm phạm, kèm biểu ngữ yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan. Các tàu Việt Nam bị đâm 20 lần, có tàu bị đâm va tới 4 lần. Những hình ảnh chúng tôi đã cung cấp cho báo chí, truyền hình cho thấy, chúng tôi không đâm va tàu Trung Quốc.

Ông Lê Hải Bình: Trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 24 tại Myanmar vừa qua, những diễn biến phức tạp trên biển liên quan đến giàn khoan trái phép của Trung Quốc đã được các lãnh đạo cấp cao đề cập. Đặc biệt, lần đầu tiên từ 1995, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao đã ra tuyên bố chung về vấn đề này. Đây là điểm nhấn trong hoạt động của ASEAN liên quan đến biển Đông. Ngoài tuyên bố chung của Hội nghị, các nước ASEAN cũng có tuyên bố riêng của mình bày tỏ lo ngại, kêu gọi các nước kiềm chế. Dư luận, chính giới quốc tế cũng ủng hộ Việt Nam. Trong thời gian tới, các lãnh đạo Việt Nam khi tham dự các hội nghị quốc tế và hội nghị song phương cũng sẽ đề cập đến vấn đề này phù hợp với tình hình và diễn biến thực địa.


Đại diện Đại sứ quán Úc:
Cho đến nay, giàn khoan Hải Dương 981 đã ở khu vực đó 3 tuần. Liệu Việt Nam có bằng chứng cho thấy giàn khoan sắp khoan thăm dò ở đó chưa? Xin cho biết thỏa thuận giữa Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam với phía Trung Quốc?

Ông Đỗ Văn Hậu - Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN): Rất khó trả lời giàn khoan Hải Dương 981 đã thăm dò chưa. Theo quy trình thông thường, thời gian đến nay đã đủ để khoan. Nhưng Việt Nam không tiếp cận được giàn khoan, nên không thể khẳng định được.


Ông Trần Duy Hải:
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan để tìm giải pháp, nhưng Trung Quốc vẫn khước từ, và còn đưa ra nhiều luận điệu sai trái về quyền chủ quyền của họ ở biển Đông. Thứ trưởng Việt Nam cũng kêu gọi không nên sử dụng biện pháp quân sự vì không phù hợp với Luật quốc tế và phía Trung Quốc cũng tán đồng với Việt Nam.

Tiền Phong: Tuy nhiên, nhiều mạng xã hội và trang tin đăng hình ảnh và thông tin nói rằng, Trung Quốc đang đưa lực lượng và vũ khí đến sát biên giới Việt Nam. Sự thực là thế nào?


Ông Trần Duy Hải:
Các hoạt động giao thương biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường, chưa có thông tin Trung Quốc đưa quân gần biên giới. Trong cuộc gặp giữa hai thứ trưởng ngoại giao hai nước, hai bên nhất trí không sử dụng quân sự để giải quyết bất đồng.

PVN khai thác bình thường, đang hợp tác với ExxonMobil


Jiji Press: Trung Quốc nói trì hoãn một số chương trình hợp tác với Việt Nam. Xin cho biết đó là những chương trình gì và có tác động tới nền kinh tế Việt Nam không? Phía Việt Nam có dự đoán con số cụ thể về trữ lượng dầu cụ thể ở khu vực này không, trong khi số liệu của Mỹ và Trung Quốc khác nhau đến 10 lần?

Ông Trần Duy Hải: Các hoạt động giữa Trung Quốc và Việt Nam chưa có gì dừng lại. Có lẽ họ nói đến việc rút các lao động. Nhưng đây đều là các lao động phổ thông, có thể thay thế bằng lao động trong nước, nên việc này chưa ảnh hưởng gì đến Việt Nam.


Ông Đỗ Văn Hậu:
Nếu nói cả biển Đông, các nước Đông Nam Á đều đã có đánh giá trữ lượng dầu. Việt Nam cũng đã đánh giá có khoảng 4-6 tỷ tấn trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Việt Nam không tin những đánh giá của Mỹ và Trung Quốc. Toàn bộ khu vực giữa biển Đông, rất nhiều người đánh giá có nguồn dầu khí lớn, nhưng chúng tôi không lạc quan như vậy. Tại khu vực Trung Quốc đang đặt giàn khoan trái phép, PVN đã có thăm dò nhưng chưa khoan nên chưa thể khẳng định. Có thể khu vực này có dầu khí, nhưng chúng tôi đánh giá trữ lượng ở khu vực này không lớn.

Bằng chứng lịch sử

Hai đoạn phim được trình chiếu tại cuộc họp cung cấp bằng chứng lịch sử chứng minh chủ quyền của Việt Nam từ thời phong kiến và thời Pháp thuộc đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Ít nhất từ thế kỷ 17, các nhà nước Việt Nam đã xác lập chủ quyền một cách hòa bình, liên tục, tuân thủ đúng luật pháp, không bị quốc gia nào phản đối.

Thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Pháp nhân danh nhà nước Việt Nam quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối yêu sách của các nước đối với 2 quần đảo này.

Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 nhằm giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ Đông Dương, Liên Xô đề nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, nhưng đã bị 46/51 nước phản đối. Chính quyền Bảo Đại cũng khẳng định chủ quyền Việt Nam và không vấp phải sự phản đối của bất kỳ ai.

Theo Hiệp định Hòa bình 1954, Pháp rút khỏi Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa tiếp quản quản lý chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố và hành vi thực tế khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này.