Trong một đội quân vận hành tiêm kích tàng hình F-22 Raptor, cường kích chống tăng A-10 Thunderbolt, oanh tạc cơ B-52 và cường kích cất hạ cánh thẳng đứng Harrier, chiếc máy bay E-6 Mercury với vẻ bề ngoài bình lặng, yên ả, được phát triển trên dòng Boeing 707 trông không có chút gì đáng sợ. Nhưng đừng để vẻ bề ngoài của nó đánh lừa.
Mặc dù máy bay Mercury không mang vũ khí, có thể nói nó là chiếc máy bay chết chóc nhất trong tay Bộ Quốc phòng Mỹ, bởi nhiệm vụ của nó là chỉ huy việc phóng các loại tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân của Mỹ trên mặt đất.
Theo National Interest, quân đội Mỹ có trung tâm Tác chiến chiến lược toàn cầu đặt ở bang Nebraska và các trạm thu phát tín hiệu mặt đất để liên lạc với “bộ ba hạt nhân” trên mặt đất, trên tàu ngầm và trên máy bay.
Tuy nhiên, chức năng của chiếc E-6 là duy trì liên lạc giữa lãnh đạo quốc gia (bắt đầu từ tổng thống và bộ trưởng quốc phòng) với lực lượng hạt nhân của Mỹ, ngay cả khi các trung tâm chỉ huy mặt đất bị đối phương tấn công hủy diệt.
Nói cách khác, đối phương có thể chặt đầu lực lượng hạt nhân của Mỹ, nhưng tên lửa hạt nhân vẫn bắn tới họ, nhờ các máy bay E-6 chuyên dùng cho “Ngày tận thế”.
Trước khi máy bay E-6 được phát triển, nhiệm vụ tương tự được giao cho các trung tâm thu phát tín hiệu mặt đất và sau đó là các loại máy bay EC-130G hay máy bay Q Hercules. Chúng có các thiết bị phát sóng vô tuyến tần số rất thấp dùng để liên lạc với các tàu ngầm của hải quân.
16 chiếc E-6 đầu tiên đã được biên chế trong giai đoạn 1989-1992. Đây là những phiên bản cải tiến cuối cùng của biến thể phục vụ quân sự thuộc dòng máy bay Boeing 707 có độ tin cậy cao, đặc biệt là phiên bản cải tiến 707-320B. Phiên bản này cũng được sử dụng để chế tạo máy bay cảnh báo sớm E-3 Sentry.
Được trang bị dày đặc với 31 antenna liên lạc, máy bay E-6A ban đầu được giao nhiệm vụ duy nhất là liên lạc với các tàu ngầm đang lặn của hải quân Mỹ. Được trang bị các động cơ turbo phản lực CFM-56 hiệu năng cao về nhiên liệu, khoang chứa nhiên liệu mở rộng hơn so với phiên bản dân sự, máy bay E-6A có thể bay liên tục 15 giờ, còn nếu được tiếp dầu có thể bay liên tục 72 giờ.
Để sử dụng các thiết bị sóng vô tuyến tần số rất thấp (VLF), một máy bay E-6 phải bay theo một quỹ đạo liên tục ở độ cao lớn. Còn khi sử dụng một antenna dạng dây dài 5 dặm, nó phải bay theo một đường gần như thẳng đứng. Lúc này, các tín hiệu sóng VLF có thể được các tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Ohio tiếp nhận cho dù tàu đang lặn sâu và cách chiếc máy bay hàng ngàn dặm.