Cảm giác nhìn Trái Đất từ xa
Năm 1980, sau khi vượt qua nhiều vòng tuyển chọn khắt khe, anh hùng Phạm Tuân trở thành người Việt Nam đầu tiên có “hộ chiếu” bay lên vũ trụ.
Ông kể: Khi còn là phi công chiến đấu, tôi lái máy bay MIC 21 bay ở độ cao đôi chục cây số nhìn xuống đã thấy mặt đất lạ và đẹp lắm rồi: thấy biển, thấy rừng, thấy sông, thấy núi... Nhưng đến khi bay vào vũ trụ, lại chỉ nhìn thấy được một phần Trái Đất, đường chân trời giống như cầu vồng, năm bảy màu rất đẹp.
Anh hùng Phạm Tuân và người thầy cùng bay vào vũ trụ: Viktor Gorbatko |
Tốc độ bay của con tàu rất lớn (xấp xỉ 8km/s), đi một vòng Trái Đất chỉ mất có 90 phút. Vũ trụ mênh mông chỉ có hai thầy trò, có lúc không có bất cứ tiếng động nào, cảm giác cô đơn lắm. Con tàu thì bay không có định hướng, lúc đầu đi trước, lúc đuôi đi trước, áp suất bên ngoài bằng không. Bên có mặt trời nhiệt độ xấp xỉ 80 độ dương, bên kia 80 độ âm, rồi có cả những tia phóng xạ, bụi vũ trụ... nghĩ chỉ một biến số nào đó thì hai thầy trò không biết có về được hay không?
Thế nên suốt 8 ngày ở trong vũ trụ, lúc nào nhìn thấy Trái Đất là cảm giác yên tâm hẳn lên, nhất là những lần bay qua Việt Nam, nghĩ ở dưới kia có người đang chờ đón mình, cảm thấy ấm áp vô cùng. Ở những vòng bay qua Việt Nam đồng đội luôn ưu tiên cho tôi chỗ nhìn tốt nhất để quan sát, chụp ảnh. Cảm giác bồi hồi ghê gớm. Rõ ràng mình đã bay trên bầu trời Tổ quốc hàng ngàn lần, nhưng giờ bay ở một tầm cao hơn, xa hơn, có những lần còn được nói chuyện với trung tâm điều hành, gửi lời chúc về quê hương, tự hào lắm!
Con tàu bay ngang qua hầu như mọi lãnh thổ, ở xa nhìn lại không còn thấy ranh giới quốc gia, và trong điều kiện bất trắc xảy ra, con tàu có thể đáp xuống bất cứ điểm nào trên Trái Đất (trong phạm vi quỹ đạo).
Sau này, có người hỏi tôi quê ông ở đâu, tôi bảo quê tôi ở Trái Đất. Khi đã bước ra đủ xa rồi thì quê tôi không chỉ là Thái Bình, là Việt Nam, mà nó là Trái Đất.
Dùng chòm sao để định vị
Để chuẩn bị cho chuyến bay lên vũ trụ, Trung tướng Phạm Tuân phải học thuộc vị trí và cách nhận diện các chòm sao để phòng trường hợp hệ thống định vị bị hỏng. Đây gần như là câu chuyện lãng mạn hiếm hoi trong chuyến bay vũ trụ bởi tướng Tuân cho biết, kể từ lúc bước chân lên tàu, thời lượng lãng mạn gần như không có, thứ cảm giác thường trực là căng thẳng và cảnh giác.
Trong khi con tàu trôi tự do (khi bay vào quỹ đạo Trái Đất, tàu vũ trụ được tắt động cơ), các phi công phải thích nghi với cách sinh tồn của… cá. Ở trạng thái không trọng lượng, mọi vật, kể cả người đều ở trạng thái lơ lửng như tranh của Marc Chagall, lúc ngủ phải chui vào túi ngủ và “buộc neo” ở một góc nào đó. Trung tướng Phạm Tuân nói rằng, trước khi lên tàu, ông được các nhà khoa học giao nhiệm vụ làm gần 40 thí nghiệm khoa học khác nhau về vật lý vũ trụ, y sinh học vũ trụ, luyện kim trong môi trường không trọng lượng... Lúc làm việc ông đều phải dùng dây buộc cố định bản thân, dép đi dưới chân cũng là loại có dính hút với mặt sàn.
Mặc dù đã được luyện tập trong suốt một năm rưỡi, lần đầu tiếp xúc với trạng thái sinh tồn này, vị phi công 32 tuổi vẫn mất đến hai ngày để thích nghi. “Ngày đầu tiền đình rối loạn, lúc đầu chúc xuống đất, lúc lên trên, không có phương hướng gì cả, đụng vào cái này chạm vào cái kia rồi lại bắn ra. Sang ngày thứ 2 thì quen”, ông kể.
Trung tướng Phạm Tuân ở tuổi 74 |
Giây phút hạnh phúc nhất của phi công vũ trụ chính là giờ phút tiếp đất. “Vui lắm khi nghe rầm một cái, tàu chạm đất, rồi quán tính lại kéo nó đi mấy cây số, thầy trò lộn nhào ở bên trong, lắc trái lắc phải, nhưng lúc ấy yên tâm lắm. Cho đến khi tàu dừng lại, thầy trò nhìn nhau thở phào. Tiếp đất rồi! Cười xong, hai thầy trò nằm thở, cho đến khi người bên ngoài mở buồng lái, đón ra”, ông nhớ lại.
Ngày Tết Độc lập không thể nào quên
Mùa thu với Trung tướng Phạm Tuân luôn đáng nhớ. Nó gắn liền với những cột mốc quan trọng của đời ông.
Ông nhập ngũ đúng vào ngày 2/9/1965. 17 tuổi đi khám nghĩa vụ quân sự, Phạm Tuân trúng tuyển nhưng đi khám phi công bị trượt vì đau mắt hột và loạn nhịp tim (giờ vẫn loạn). Thế là ông được cử đi học thợ máy ở Nga.
Nhớ về quãng thời gian này, Trung tướng hóm hỉnh: Nhiều người muốn tôi phải nói là tôi yêu bầu trời, mơ ước trở thành phi công từ nhỏ, thực sự không phải như vậy. Quê tôi ở đồng bằng Bắc Bộ, với trẻ con nông thôn, không quân là cái gì cao xa lắm. Đến năm 1964 học lớp 10, thấy máy bay Mỹ bay qua tôi mới biết máy bay là thế nào. Con em nông dân, sức khỏe lại có hạn làm sao dám mơ ước trở thành phi công.
“Tháng 11/1965, tôi sang Liên Xô. Lúc đó là cuối thu đầu đông, đúng vào mùa lá vàng rơi. Trong trường, những chiếc MIC 21 huấn luyện bay xé trời, khi hạ cánh những chiếc dù nhiều màu bung ra đẹp vô cùng. Đi trên đường gặp phi công Việt Nam mặc bộ quần áo nhiều túi, xúng xính chiếc cặp da bay, thấy ngưỡng mộ ghê gớm. Lúc bấy giờ tôi chỉ mong được ngồi trên máy bay một lần thôi, rồi xuống cũng được. Sau đó đội ngũ phi công sang huấn luyện, nhiều người trượt bay, cấp trên mới “khảo cổ” lại đội ngũ thợ máy, tôi may mắn đỗ. Ban đầu chỉ được bay máy bay phọt phẹt nhất, tốc độ 120-150km/h, còn không bằng tốc độ ô tô bây giờ, dần dần mới bay đến MIC 17 rồi MIC 21”.
Cũng nhờ may mắn ấy, sau khi trở thành phi công được chọn để bay lên vũ trụ. Anh hùng Phạm Tuân tổng kết: đời tôi có đến 90% là may mắn, và cũng may là mình biết chớp lấy may mắn ấy, biến nó từ giấc mơ thành hiện thực.
Thực ra, câu chuyện ông nói nhẹ nhõm, nhưng thực tế, những vất vả ông phải trải qua hẳn không dễ đo bằng tiêu chuẩn thông thường. Chẳng phải ngẫu nhiên, người thầy bay cùng, Viktor Gorbatko, trong hồi ký của mình gọi ông là “Tuân thép”.
Kết thúc chuyến bay vào vũ trụ 8 ngày, ông về nước đúng vào dịp Quốc khánh 2/9/1980.
“Chưa bao giờ tôi được dự một cuộc tiếp đón đông vui như thế. Từ sân bay Nội Bài về đến Gia Lâm, hai bên đường người dân cầm cờ đỏ đứng vẫy rất đông. Rồi từ đoạn xe qua cầu Long Biên, về đến nhà khách chính phủ, người đứng kín hai bên đường hoan hô. Về đến nhà khách, chúng tôi gặp hầu hết các lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Tôi cũng không nghĩ mình được đón tiếp long trọng thế. Dự lễ Quốc khánh ở Hà Nội xong chúng tôi lại vào Sài Gòn. Đó là những ngày rất khó quên!
Trung tướng Phạm Tuân sinh ngày 14/2/1947 tại xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Vào đêm 27/12/1972, theo tài liệu lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông bắn rơi một máy bay B-52 của Mỹ, trở thành người đầu tiên bắn hạ được loại máy bay này từ trên không và trở về an toàn. Năm 1973, ông được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Năm 1980, sau chuyến bay vào vũ trụ thành công, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Việt Nam.
Cùng năm đó, ông được phía Liên Xô phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, trở thành một trong những người nước ngoài đầu tiên được trao tặng danh hiệu này kèm theo Huân chương Lenin.
Câu chuyện ông nói nhẹ nhõm, nhưng thực tế, những vất vả ông phải trải qua hẳn không dễ đo bằng tiêu chuẩn thông thường. Chẳng phải ngẫu nhiên, người thầy bay cùng, Viktor Gorbatko, trong hồi ký của mình gọi ông là “Tuân thép”.