Các tiến bộ trong điều trị ung thư tụy, đường mật

0:00 / 0:00
0:00
TPO - GS.TS Lê Văn Quảng, Giám đốc Bệnh viện K cảnh báo: “Ung thư đường mật và ung thư tụy là bệnh ung thư không thường gặp nhưng có độ ác tính và tỉ lệ tử vong cao. Do triệu chứng của bệnh thường không đặc hiệu nên bệnh thường phát hiện ra ở giai đoạn muộn”. 

Hiện nay, với sự phát triển của y học, nhiều thuốc mới như thuốc đích, miễn dịch hay các thuốc hoá chất mới ra đời đã giúp nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân ung thư nói chung, trong đó có ung thư đường mật và ung thư tuyến tuỵ.

Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo quốc tế “Nắm bắt những cơ hội quý giá của cuộc sống” với sự tham dự của hàng trăm đại biểu chuyên gia trong nước và hơn 40 chuyên gia quốc tế đến từ Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Philippines, Indonesia, Malaysia, Cambodia, Lào. Tại Hội thảo do Bệnh viện K tổ chức, các chuyên gia tập trung chia sẻ về các tiến bộ trong điều trị ung thư đường mật, ung thư tuỵ và thảo luận 3 ca lâm sàng.

GS Quảng cho biết, trước đây, hóa trị là phương pháp chủ yếu điều trị ở giai đoạn muộn dựa trên nền tảng các hóa chất như 5FU, Platium, Gemcitabine. Hiện nay với sự phát triển của y học, nhiều thuốc mới như thuốc đích, miễn dịch hay các thuốc hóa chất mới đã ra đời giúp nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân ung thư nói chung trong đó có ung thư đường mật và ung thư tụy nói riêng.

Các tiến bộ trong điều trị ung thư tụy, đường mật ảnh 1

GS.TS Lê Văn Quảng phát biểu tại hội thảo quốc tế

Bác sĩ Aumkhae Sookprasert - Bệnh viện Srinagarind, Thái Lan chia sẻ về nội dung “Các tiến bộ trong điều trị ung thư đường mật”. Bà Aumkhae Sookprasert nhấn mạnh: “Phẫu thuật vẫn có vai trò chính ở giai đoạn sớm, tuy nhiên chỉ có 20% số bệnh nhân mới có chỉ định phẫu thuật triệt căn ngay từ đầu. Ở giai đoạn muộn, điều trị miễn dịch kết hợp với hóa trị là phác đồ được lựa chọn nhưng tỉ lệ đáp ứng là 26,7%. Ngoài ra, phác đồ hóa trị 3 thuốc có TS-1 đường uống cũng có hiệu quả với tỉ lệ đáp ứng lên tới 41,5%. Mặt khác, với những tiến bộ về sinh học phân tử, nhiều đột biến gen đã được phát hiện và nghiên cứu, qua đó thuốc điều trị đích đã được áp dụng thành công trên bệnh nhân ung thư đường mật”.

Báo cáo về “Các triển vọng mới trong điều trị ung thư tụy”, các bác sĩ chia sẻ một số khó khăn, thách thức trong điều trị ung thư tụy. Đây là một trong những bệnh có độ ác tính và tỉ lệ tử vong cao. Bệnh cũng thường phát hiện ra ở giai đoạn tiến triển. Ở nhóm bệnh nhân giai đoạn sớm còn chỉ định phẫu thuật triệt căn, hầu hết các bệnh nhân đều có chỉ định điều trị bổ trợ bằng hóa trị. Với sự ra đời của thuốc mới, theo kết quả của nghiên cứu JASPAC 01 trong điều trị đơn trị, TS-1 mang lại hiệu quả hơn phác đồ hay dùng trước đây như Gemcitabine. Bên cạnh đó ở nhóm bệnh nhân giai đoạn muộn, di căn, các thuốc miễn dịch mới hoặc hóa chất mới cũng được chứng minh có hiệu quả trong việc điều trị cho người bệnh.

TS. Phạm Tuấn Anh đến từ Bệnh viện K đã báo cáo các ca lâm sàng ung thư đường mật, ung thư tụy. Đây đều là những trường hợp hay và đã áp dụng thuốc mới trong điều trị bổ trợ hoặc điều trị triệu chứng cho bệnh nhân. Kết quả cho thấy các thuốc mới đó đều có hiệu quả trong việc điều trị cho người bệnh. Đó là những minh chứng rõ nét nhất trong việc áp dụng những tiến bộ trong điều trị nội khoa ung thư nói chung và ung thư đường mật, ung thư tụy nói riêng.

Bế mạc hội thảo, GS.TS Lê Văn Quảng, Giám đốc Bệnh viện K nhấn mạnh: “Với sự phát triển của y học, hiểu biết rõ hơn về các đặc điểm sinh học phân tử của từng bệnh, các thuốc mới đã ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong điều trị bệnh ung thư nói chung trong đó có ung thư đường mật, ung thư tụy. Do đó, bác sĩ có nhiều lựa chọn các phác đồ điều trị tiên tiến cho bệnh nhân giúp mang lại hiệu quả cao nhưng có ít tác dụng không mong muốn hơn.”

Các chuyên gia nước ngoài đánh giá, hội thảo là diễn đàn khoa học quốc tế chất lượng, có chiều sâu và chuyên nghiệp; là cơ hội để các chuyên gia có cơ hội được cập nhật các kiến thức mới. GS. Quảng cũng mong muốn có nhiều hội thảo quốc tế tương tự được tổ chức với mục tiêu nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư tại Việt Nam.

MỚI - NÓNG