>> Kho báu nhà Nguyễn hiện giờ ra sao?
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cố vấn Vĩnh Thụy (nguyên là Vua Bảo Đại) và Bộ trưởng Cứu tế Xã hội Nguyễn Văn Tố tiếp một sỹ quan Mỹ đến hưởng ứng Tuần lễ vàng Ảnh: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam |
Trong bài, tác giả nhà báo Xuân Ba viết về số phận chiếc ấn vàng và thanh kiếm vàng tượng trưng quyền lực vương triều mà hoàng đế Bảo Đại đã trao cho đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời thể hiện sự quy phục, đầu hàng của phong kiến nhà Nguyễn.
Đó là buổi chiều ngày 30/8/1945 trước sự chứng kiến của hơn năm vạn người dân thành Huế đang hò reo, hừng hực khí thế trước đại lầu Ngũ phụng Ngọ Môn.
Thay mặt Chính phủ Cách mạng, Bộ trưởng Trần Huy Liệu đã tiếp nhận ấn, kiếm và gắn huy hiệu công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho cựu hoàng. Trong bài, tác giả cho biết: “Bộ ấn kiếm này ngay ngày hôm sau được đem ra Hà Nội để kịp có mặt trong lễ độc lập vào ngày 2/9/1945”.
Rất tiếc tác giả không kể tiếp trong buổi lễ Độc lập, ấn kiếm có được trưng lên cho mọi người thấy hay không?
Hàng vạn người Hà Nội đã thấy ấn kiếm
Vậy trong ngày 2/9/1945 ấn, kiếm triều Nguyễn được trưng lên vào lúc nào? Trước hay sau khi Cụ Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập? Những ai được giao làm việc này?... Đây là một tiết mục hết sức quan trọng, nó là chứng tích hiện hữu cho toàn thể mọi người thấy tận mắt ngai vàng thiên tử đã hoàn toàn sụp đổ, dân ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi kiếp nô lệ ngoại bang, chính quyền dân chủ đã về tay nhân dân.
Cách đây ít ngày, người viết bài này có gặp bà Giáo sư triết học Lê Thi tức Dương Thị Thoa, cô nữ sinh trường Đồng Khánh Hà Nội có vinh dự cùng người con gái dân tộc Tày chiến sĩ giải phóng quân Đàm Thị Loan kéo cờ đỏ sao vàng trong lễ độc lập. Hôm ấy cả hai bà đều đứng trên lễ đài Ba Đình, đứng ngay sau Hồ Chủ tịch và các vị trong Chính phủ Cách mạng lâm thời. Vậy mà khi được hỏi về chuyện ấn kiếm bà Thi lắc đầu: Không nhớ, không biết có chuyện ấy hay không?
Phải chăng vì lòng người ngây ngất trước lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên đỉnh cột cao, vì tâm trí mọi người đều tập trung lắng nghe từng lời từng chữ trong bản Tuyên ngôn độc lập, đặc biệt chú ý đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, “con người huyền thoại” lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng ăn mặc giản dị và bất chợt dừng lời hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”… Khi trí nhớ in sâu vào sự kiện nào đó thì nó mặc nhiên “loại bỏ” những sự việc ít quan trọng hơn.
Dưới đây xin ghi lại lời kể của ông Nguyễn Hữu Đang, nguyên trưởng ban tổ chức buổi lễ ngày 2/9/1945, đoạn ông viết ấn kiếm vương triều nhà Nguyễn đã được trưng trên lễ đài ngày Độc lập như thế nào (đăng trên tạp chí Xưa & Nay hơn 10 năm trước đây):
…... Gần trưa, ở quảng trường Ba Đình- hôm ấy vẫn còn gọi là vườn hoa – rầm rộ dưới ánh nắng chói chang, công việc chuẩn bị đại lễ tuyên bố độc lập đã xong. Trong khi các đoàn biểu tình ùn ùn kéo đến, tôi cùng với mấy anh em có trách nhiệm lên trên lễ đài xem xét lại lần chót sự bố trí ở đấy. Chúng tôi dừng lại mấy phút trước ấn kiếm truyền thống của nhà Nguyễn đã được đưa đến từ lúc tám giờ.
Bị tước cái oai đế nghiệp, ấn và kiếm nằm im lìm, trơ trọi trên mặt chiếc bàn con, giữa biển người sôi nổi dự mít tinh giống như hai công thần của bộ máy cai trị phi nghĩa đã đầu hàng, bị giam lỏng đang tủi hận nhớ thời oanh liệt, đành ngoan ngoãn chờ chốc nữa sẽ làm chứng cho sự cáo chung chẳng những một triều đại mà của cả một chế độ xã hội già cỗi thối nát.
Rồi chúng sẽ vào nằm trong viện bảo tàng yên phận di tích, không cần đến lời thuyết minh, tự chúng thầm lặng nhắc nhở người đời cái lẽ thịnh suy, tồn vong của chính thể ở thế gian theo tất yếu lịch sử mà ngày xưa các cụ gọi bằng hai tiếng “vận hội”. Trong số mười lăm triều đại đã vong ở Việt Nam, nhà Nguyễn may mắn nhờ giải pháp ôn hòa nhân đạo của lực lượng lên thay, đã vong êm đềm.
...…Cụ Hồ ra đọc Tuyên ngôn độc lập rồi Võ Nguyên Giáp trình bày về đường lối, chính sách của chính phủ lâm thời mở rộng. Đến lượt Trần Huy Liệu báo cáo. Tôi đứng sẵn bên chiếc bàn con trên để ấn kiếm.
Ông Liệu nói đến chỗ Bảo Đại trân trọng nộp ấn kiếm, tôi khẽ bấm cánh tay ông để ông tạm ngừng lại. Rồi tôi, tay phải cầm lấy thanh kiếm, tay trái thản nhiên dùng năm đầu ngón tay nhón cái núm chiếc ấn định cứ thế cùng một lúc giơ cả hai thứ lên cao để đồng bào trông thấy.
Chẳng ngờ thanh kiếm tương đối nhẹ, một tay tôi thừa sức điều khiển, còn chiếc ấn bướng bỉnh cứ ỳ ra, không nhúc nhích-nó nhỏ thôi mà sao nặng quá thế? (Sau này tôi mới biết nó nặng trên năm ki-lô-gam).
Tôi vội buông thanh kiếm, dùng cả hai tay lấy hết sức lôi chiếc ấn lên cách mặt bàn độ ba mươi phân, luồn tay phải xuống phía dưới, lựa cho nó nằm trên cùi bàn tay để ngửa rồi cúi mình co cánh tay từ từ nâng nó lên như lực sĩ cử tạ, trong khi tay trái vớ thanh kiếm giơ lên ngang chiếc ấn...…
Đồng bào hò reo vang trời kéo dài. Tôi cố đứng vững, hai tay dựng thẳng như thế bốn năm phút liền. Cánh tay nâng chiếc ấn bắt đầu mỏi, buốt và đe dọa sa đà cúi xuống. Tôi đã kịp thời hạ chiếc ấn lừa dối, tai ác xuống cùng với thanh kiếm thật thà hiền lành, thở phào nhẹ nhõm.
(Năm 1992 đọc hồi ký của ông Liệu tôi mới biết ngày 30/8/1945 trên Ngọ môn trong động tác trưng ấn, kiếm để đồng bào Huế coi, ông cũng đã chủ quan, bất ngờ và lúng túng vất vả như tôi. Thậm chí hơn tôi: Ông đuối sức đến suýt bị siêu vẹo. Cả hai chúng tôi đều kiết xác, chưa bao giờ được cầm vàng tới vài đồng cân nên khó lường sức nặng của nó).
Ấn nào? Ấn thật? Ấn rỏm?
Trong kho lưu giữ những vật báu của triều đình nhà Nguyễn chỉ kể riêng các ấn vàng đã có nhiều chiếc to nhỏ khác nhau, vì mỗi ông vua lại đúc một ấn riêng và đều là Hoàng đế chi bảo. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho đúc ấn hình vuông trên khắc bốn chữ “Vương quốc chi ấn”.
Đây là thể hiện thái độ công khai độc lập với vương triều nhà Lê, thực chất là đối lập với chính quyền lũng đoạn họ Trịnh ở miền Bắc bấy giờ. Còn ấn Đệ nhất bảo tỷ hoàng đế chi bảo thì đúc vào năm Minh Mệnh thứ tư (1823). Gọi “đệ nhất” không chỉ vì nó được chế tác mỹ thuật, tinh xảo, lớn và nặng hơn hẳn (khoảng 10 kg vàng ròng) mà vì năm này vua Minh Mệnh đổi quốc hiệu Đại Nam nhằm sánh với nhà Đại Thanh bên Trung Quốc.
Nhiều ý kiến cho rằng chiếc ấn Bảo Đại giao nộp cho chính quyền cách mạng là ấn vàng đệ nhất bảo tỷ và kiếm vàng truyền từ thời Gia Long. Nhưng có đúng thế không? Tôi tán thành thái độ thận trọng của Tiền Phong khi chú thích ảnh chụp ấn Hoàng đế chi bảo được coi là Bảo Đại trao cho ông Trần Huy Liệu ngày 30/8/1945. Trong bài viết của mình, tác giả Xuân Ba cũng băn khoăn Nếu đúng chiếc ấn mà Bảo Đại trao… là Hoàng đế chi bảo.
Năm 1952, trong thành phố Hà Nội rộ lên tin tìm thấy ấn vàng, bảo kiếm triều Nguyễn từ nơi Chính phủ kháng chiến cụ Hồ bí mật cất giấu, không kịp đem lên chiến khu Việt Bắc. Người viết bài này khi đó là một cán bộ kháng chiến hoạt động trong nội thành. Ban đầu thì người ta cũng mừng, nhưng dân Hà Nội tinh lắm, tỏ ra thờ ơ trước “lễ” cựu hoàng Bảo Đại nhận lại báu vật của tổ tiên.
Bởi vì ai cũng hiểu rõ mục đích rùm beng của nhà cầm quyền lúc này là gây tâm lý “quý vật tầm quý nhân”, “châu về Hợp phố” nhằm tô trát cho chính phủ “quốc gia” đứng đầu là Bảo Đại mới từ nước ngoài trở về nhận làm “quốc trưởng” tay sai thực dân Pháp. Cho nên ai cũng có quyền nghi ngờ có thực là ấn vàng, kiếm báu đã giao nộp năm 1945? Hay đây là vật mô phỏng chế tác theo mẫu cũ, tất nhiên cũng bằng vàng, nhưng tuổi vàng, trọng lượng, tỷ lệ vàng?...
Nói theo ngôn ngữ bây giờ là của rỏm. Hôm nay, kiếm báu không biết có còn? Ấn vàng thì bà đầm vợ bé của Bảo Đại sở hữu, gửi tại một ngân hàng quốc tế nào đó mà nhà báo Xuân Ba có lý khi viết “không rõ có phải là Hoàng đế chi bảo không”?
Trên lễ đài Ba Đình, Hồ Chủ tịch tuốt kiếm…
Trong hồi ký của mình, ông Nguyễn Hữu Đang viết tiếp:
…Trần Huy Liệu báo cáo xong, tôi vẫn đứng cạnh micro để tiếp tục điều hành buổi lễ. Quay về phía Nguyễn Lương Bằng đại diện Tổng bộ Việt Minh ngồi ở hàng ghế đầu, tôi khẽ cúi đầu, lùi lại một bước để nhường chỗ tỏ ý mời ông phát biểu ý kiến như đã ghi trong chương trình. Bỗng cụ Hồ đứng phắt dậy, nhanh nhẹn cầm lấy thanh kiếm, thong thả bước tới micro, rút mạnh lưỡi kiếm ra khỏi vỏ rồi vừa giơ nó lên cao hết tầm tay, vừa thét lớn đến làm rung động không gian quảng trường, chậm rãi rằn từng tiếng:
- Thanh kiếm này là để chặt đầu những tên phản quốc!
Một lần nữa nửa triệu người lại hoan hô như sấm dậy và kéo dài. Họ hoan hô nhiệt liệt câu răn đe, bảo vệ độc lập vang dội từ lễ đài tuyên bố độc lập, cực kỳ nghiêm khắc mà hợp lòng dân.
Cụ Hồ đặt lại thanh kiếm vào chỗ cũ, trở về ghế ngồi, vẻ mặt còn giận dữ như vừa mới ra tay trừng trị kẻ phạm tội đối với dân tộc.
…Cho đến tận bây giờ, biết rõ Ông Cụ kín đáo mềm mỏng hơn ai hết thì mỗi khi nhớ lại cảnh tượng hôm ấy, tôi không khỏi nghĩ đến một trường hợp đột xuất, ngoại lệ.
Hà Nội, 1/9/2009
Chú thích của người viết bài: Báo “Sự thật” số kỷ niệm quốc khánh 2/9/1947 có đoạn viết: Chủ tịch Hồ Chí Minh khác nào đứng trên đỉnh núi cách mạng tuốt thanh gươm do phái đoàn chính phủ từ Huế mang ra và thét lên một câu làm cho bọn thực dân và các hạng việt gian phản quốc dựng tóc gáy: “Gươm này dùng để chặt đầu bọn xâm lược và những kẻ phản quốc hại nòi”. |