Buôn Đôn từ lâu được nhắc đến là vùng đất huyền sử với cảnh quan hùng vĩ và bản sắc văn hóa đa dạng, vươn dài theo dòng sông Sêrêpôk nước chảy hiền hòa, trai gái, người già trẻ nhỏ say sưa vũ điệu dân gian trong lễ hội. Bà con lưu truyền, gìn giữ các bài cúng voi như: Cúng voi nhập buôn, cúng sức khỏe cho voi, đám cưới voi, cúng cắt ngà voi… Từ những đêm vang dội tiếng cồng chiêng, dưới bàn tay nghệ nhân dồn hết tâm lực cho chiêng được truyền kể trong những đêm nồng đượm nghĩa tình, khơi dậy khát vọng đối với thế hệ trẻ.
Lễ buộc chỉ cổ tay |
Theo những người già nơi đây, cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, cha của ông Y Thu Knul từ đất nước Triệu Voi (Lào) xuôi thuyền theo dòng Mê Kông, ngược dòng Sêrêpôk đến buôn bán, trao đổi hàng hóa với tộc người sống dọc sông Sêrêpôk. Thấy vùng đất phong cảnh hữu tình, người dân đầy lòng mến khách nên cha ông Y Thu đã chọn vùng đất này làm nơi cư trú và nên duyên với cô gái M’Nông bản địa…Lúc đầu, ông chọn một số cồn đất nổi bên sông để lập làng, đặt tên là Bản Đon (Đon là đảo) về sau mọi người quen gọi Bản Đôn. Hiện nay dấu tích còn lại ở buôn Yang Lành (xã Krông Na) là thác Phật, cây Bồ Đề trên 100 tuổi (được tổ chức kỷ lục Châu Á, hội kỷ lục gia Việt Nam ghi nhận là cây trồng lâu năm nhất trên vùng đất Tây Nguyên. Năm 2015 được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản).
Cây bồ đề trên 100 tuổi ở buôn Yang Lành |
Hàng năm, vào tháng 4 dương lịch tại xã Krông Na diễn ra lễ hội Bunpimay là tết cổ truyền của người Lào với các hoạt động: Lễ hội hoa đăng - thả bè - lễ cầu may, lễ tắm Phật, đắp tháp cát, giao lưu văn nghệ, ẩm thực văn hóa Lào. Năm 2021, lễ hội Bunpimay được tổ chức vào trung tuần tháng 4 (dương lịch), tại đây người dân té nước vào nhau để chúc phúc, cầu mong sức khỏe bình an và cầu cho một năm mới ấm no, hạnh phúc, buộc chỉ cổ tay cầu may mắn. Dưới cái nắng như đổ lửa, không khí rộn ràng, vui tươi tại lễ hội Bunpimay, những người phụ nữ Lào trong bộ trang phục truyền thống áo ngắn tay, váy hoa sặc sỡ cùng những đường nét hoa văn độc đáo uyển chuyển trong điệu múa lăm vông.
Lễ buộc chỉ cổ tay là một phong tục có từ lâu đời, mang nét đẹp văn hóa, tinh thần của người dân xứ sở Triệu Voi. Phong tục này được tiến hành vào dịp tết Bunpimay, cưới xin, tiễn người đi xa...Khi buộc chỉ, người Lào bao giờ cũng dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho người được buộc. Theo người dân ở đây, để lời chúc được hiệu nghiệm, trong vòng ba ngày người nhận lễ không được tháo sợi chỉ ra vì bất cứ lý do gì. Trong phong tục của người Lào thường cầu cho người khác hơn là cầu cho mình, bởi họ cầu mong tốt lành cho người khác thì người khác mang bình an đến cho họ.
Hiện huyện Buôn Đôn có hơn 200 người Việt gốc Lào, tập trung chủ yếu ở xã Krông Na. Hàng năm, ngoài việc tổ chức các lễ hội của tất cả cộng đồng các dân tộc thì việc tổ chức tết truyền thống Bunpimay cho bà con thể hiện sự tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân các bộ tộc Lào, góp phần vun đắp tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào, đồng thời bảo tồn, làm phong phú kho tàng văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Sợi dây kết nối
Trong ánh nắng chiều vàng rực chiếu xuống dòng Sêrêpôk ào ào tuôn chảy, một niềm kiêu hãnh bừng lên trên gương mặt ông Kẹo Pha Lung. Ông nhớ lại, xưa kia vào những ngày đầu năm, ông rong ruổi qua vùng đất Buôn Đôn giao thương hàng hóa, tiếng chiêng và điệu múa của sơn nữ nơi đây khiến ông mê mẩn. Ông quyết tâm ở lại lập nghiệp rồi nên duyên với H’Bột. Các thế hệ con cháu mang hai dòng máu Việt - Lào sinh trưởng trên mảnh đất Buôn Đôn.
Lễ buộc chỉ cổ tay là một phong tục có từ lâu đời, mang nét đẹp văn hóa, tinh thần của người dân xứ sở Triệu Voi. Phong tục này được tiến hành vào dịp tết Bunpimay, cưới xin, tiễn người đi xa...Khi buộc chỉ, người Lào bao giờ cũng dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho người được buộc.
Hòa mình trong cuộc sống dung dị, gần gũi với cộng đồng các dân tộc Việt Nam ở Buôn Đôn bao năm, cùng những câu chuyện kể của cha ông về một Tây Nguyên hùng vĩ, con người chất phác hồn hậu, khát vọng được đắm mình trong không gian ấy cứ lớn dần trong người của họ. Mỗi dịp đầu năm mới trong mâm cơm của gia đình bà H’On Kẹo Lào (buôn Trí B, xã Krông Na) có đầy đủ món ăn truyền thống của người Việt lẫn người Lào. Bà Kẹo Lào chia sẻ, bà lớn lên ở mảnh đất này, lấy chồng người Êđê, thấm sâu nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nhưng cũng được cha mẹ dạy kỹ các nét đẹp văn hóa Lào để mang ra giao lưu và trao truyền cho con cái sau này. Ở đây, chuyện người Êđê lấy người Lào, người Lào lấy người M’Nông không còn là chuyện hiếm hoi nữa. Cũng bởi quyện hòa nên giờ đây nhìn qua khó có thể phân biệt đâu là người gốc Lào, đâu là người Ê Đê.
Đi dọc buôn Trí A (xã Krông Na) những khu hàng hóa đa dạng sắc màu với đầy đủ các sản phẩm đặc trưng của người Êđê, M’Nông, Lào…Anh Khăm Thanh tự hào, cha mình đến đây dạy cách thuần dưỡng voi cho các nài voi người Êđê, sau đó lấy vợ người Êđê rồi sinh ra mình, giờ mình nên duyên với cô gái Êđê được tiếp cận nét đẹp văn hóa độc đáo của hai dân tộc. Thế hệ sau như sợi dây kết nối, tiếp nhận, giữ gìn những giá trị đặc sắc nên tình nghĩa ngày càng bền chặt. Lúc nông nhàn hay các lễ hội những gia đình người Việt gốc Lào quây quần ôn lại những giá trị truyền thống của hai dân tộc. Đó như món ăn tinh thần xua đi nhọc nhằn trong cuộc sống lao động sản xuất thường ngày.