Điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình mới như thế nào?

TPO - Bộ GD&ĐT đã có văn bản gửi Chính phủ đề nghị giãn thời gian thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới một năm so với lộ trình được đưa ra tại Nghị Quyết 88 của Quốc hội. Tiền Phong đã có cuộc trao đổi với GS. Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình Giáo dục phổ thông mới để tìm hiểu lộ trình này được điều chỉnh cụ thể như thế nào.

GS. Nguyễn Minh Thuyết cho biết, hiện nay Bộ GD&ĐT đã có công văn báo cáo với Chính phủ. Đề xuất của Bộ GD&ĐT chắc sẽ được Chính phủ xem xét trong kỳ họp vào đầu tháng 10 tới. Nếu Chính phủ đồng ý, sẽ báo cáo Quốc hội. Việc giãn hay vẫn thực hiện theo tiến độ đã được xác định tại Nghị quyết 88 của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là do Quốc hội quyết định. Tôi cho rằng nếu giãn được tiến độ một năm thì công việc chuẩn bị sẽ chắc chắn hơn, đặc biệt là khâu chuẩn bị đội ngũ giáo viên, khâu cải thiện điều kiện học tập ở mức tối thiểu.

Tức là hai điều kiện để đảm bảo chương trình thực hiện thành công sẽ có thêm thời gian chuẩn bị, thưa ông?

Đúng là cần có thêm thời gian chuẩn bị hai điều kiện then chốt này. Nhưng việc giãn tiến độ thực hiện cũng tạo điều kiện để chương trình có thêm thời gian lấy ý kiến và thực nghiệm được chu đáo hơn. Thứ nữa, với quy định “một chương trình, nhiều sách giao khoa”, việc giãn tiến độ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều tổ chức, cá nhân tham gia viết sách.

Với đội ngũ giáo viên, theo ông liệu có chuẩn bị kịp?

Tôi không lo lắng về trình độ giáo viên Việt Nam hiện nay, vì nhìn chung đội ngũ đã cơ bản đạt chuẩn. Điều tôi lo nhất là động lực đổi mới trong mỗi giáo viên. Tự đặt mình vào địa vị của giáo viên sẽ thấy được điều đó. Anh chị em giáo viên đang làm một công việc rất quen thuộc, giờ phải thay đổi là một thử thách rất lớn.  Tôi từng dạy học nhiều năm nên cũng hiểu khá rõ điều này.

Việc giao nhiệm vụ cho học sinh, sinh viên tự tìm hiểu vấn đề, trao đổi nhóm rồi lên lớp trao đổi với giáo viên sẽ khó hơn rất nhiều so với việc giáo viên truyền thụ kiến thức theo bài soạn sẵn có của mình. Người học tự nghiên cứu, tự làm chắc chắn sẽ nảy sinh nhiều thắc mắc. Do vậy, phương pháp dạy học mới thử thách giáo viên nhiều hơn. Giáo viên phải rất nhiệt huyết thì mới làm được.Tất nhiên, một số công việc như phương pháp dạy học mới, nội dung mới sẽ phải tập huấn.

Tại hội thảo về chất lượng giáo dục phổ thông do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội vừa tổ chức, một giảng viên ở Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết phổ thông sắp tới dạy tích hợp nhưng giáo viên vẫn dạy đơn môn. Ông nghĩ sao trước ý kiến này?

Tôi được biết tại các trường ĐH sư phạm đã có chương trình đào tạo phù hợp với chương trình GDPT mới. Xu hướng tích hợp liên môn đã có trên thế giới từ lâu. Khi xây dựng chương trình năm 2000 Bộ GD&ĐT cũng đã đưa ra chủ trương này. Nhưng ngày đó chúng ta không có chuyên gia, không có kinh nghiệm nên không triển khai được. Lần này, chúng ta quyết tâm làm. Bộ GD&ĐT đã tổ chức các trường sư phạm nghiên cứu đổi mới chương trình. Các trường sư phạm  cũng đã xây dựng chương trình đào tạo giáo viên dạy các môn tích hợp rồi. Nhưng họ cũng phải chờ chương trình tổng thể được duyệt mới  mở được ngành đào tạo mới.

Còn về điều kiện cơ sở vật chất, theo ông, liệu các thành phố lớn có kịp giảm sĩ số không?

Tôi e rằng khó. Lớp học đông rất khó tổ chức cho học sinh hoạt động. Thực hiện chương trình mới, học sinh sẽ phải hoạt động nhóm nhiều hơn nhưng bàn ghế vẫn kê theo truyền thống hiện nay thì không hoạt động được. Ở các nước, học sinh di chuyển đến các phòng học bộ môn để học,  thậm chí trong lớp cũng chia thành các góc học tập. Còn ở Việt Nam, chúng ta chưa có phòng học bộ môn, giáo viên phải mang thiết bị dạy học lên lớp,… Có thể nói ta đang làm đổi mới trong hoàn cảnh rất khó khăn. Hơn nữa, học sinh tiểu học nhiều nơi chỉ được học 5 buổi/tuần, trong khi quy định tiểu học phải được học 2 buổi/ngày. Kể cả trung tâm các thành phố lớn, không phải chỗ nào cũng đủ phòng học. Do đó, cần sự vào cuộc của các địa phương. 

Dù sĩ số học sinh của các trường tại các thành phố lớn đang quá tải nhưng không thể tuyển thêm giáo viên vì liên quan đến biên chế giáo viên, thưa ông?

Chúng ta nói thừa giáo viên nhưng nếu theo đúng như quy định tiểu học 35 học sinh/lớp thì còn thiếu nhiều. Nếu tính  định biên như các nước  trên thế giới là 25 học sinh/lớp thì còn thiếu nữa. Tôi chắc là Bộ GDĐT sẽ phải làm việc với các Bộ Nội vụ, tài chính và báo cáo Chính phủ về vấn đề này. Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, tăng lương cho giáo viên rất khó. Nhưng họ cần được trả đúng, trả đủ so với công sức bỏ ra.  Ví dụ theo quy định là 35 học sinh/lớp nhưng nếu giáo viên phải dạy 50 – 60 học sinh/lớp thì cần có phụ cấp. 

Năm đầu chỉ đổi mới ở lớp 1 

Ông có thể cho biết cụ thể lộ trình giãn thời gian thực hiện chương trình mới thời gian tới như thế nào, thưa ông?

Lộ trình  sắp tới sẽ có điều chỉnh so với lộ trình trước đây đã xây dựng. Theo Nghị quyết 88 của Quốc hội, năm học 2018-2019 sẽ triển khai CT mới đồng thời ở lớp đầu cấp của ba cấp học là lớp 1, lớp 6, lớp 10. Theo lộ trình này, đến năm thứ 4, sẽ chỉ triển khai đến lớp 4, lớp 9; và năm thứ 5 sẽ chỉ còn lớp 5.

Trong phương án mới, chúng tôi đề xuất năm đầu sẽ triển khai CT mới ở lớp 1, trong khi đó sẽ tiến hành thực nghiệm ở các lớp khác. Năm thứ hai triển khai lớp 2 , lớp 6. Năm thứ ba sẽ là lớp 3, lớp 7, lớp 10. Năm thứ tư là lớp 4, lớp 8 lớp 11. Năm cuối là lớp 5, lớp 9 và lớp 12. Hai cấp học THCS, THPT cần có thời gian để chuẩn bị kỹ hơn nên triển khai sau một bước thì hợp lý hơn.

Vậy theo ông,mô hình trường học mới (VNEN) đang triển khai có thích hợp với chương trình mới sắp tới không?

Mô hình trường học mới (VNEN) phù hợp với xu hướng của giáo dục thế giới, đề cao vai trò trung tâm, tính tự chủ, khả năng tự học của người học. Đó là xu hướng của thế giới và cũng phù hợp với xu hướng của chương trình mới. Thời gian vừa qua, việc thực hiện VNEN gặp khó khăn ở một số địa phương là do cách thức có phần vội vàng, chỉ đạo cũng có sự cực đoan, chứ không phải tại mô hình. Đây cũng là bài học mà chương trình mới cần phải rút kinh nghiệm. Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất triển khai năm đầu tiên là lớp 1, không căng sức ra cả ba cấp học, để làm đến đâu chắc đến đấy.

Còn tương lai của VNEN trong chương trình mới như thế nào thì phải đặt nó trong bối cảnh thực hiện chủ trương một chương trình, nhiều sách giáo khoa. Những yêu tố tích cực của VNEN chắc chắn được phản ánh trong chương trình, sách giáo khoa mới. Có thể sẽ có những sách giáo khoa thể hiện đậm nét “chất VNEN” hơn. Việc lựa chọn sách giáo khoa phụ thuộc vào các tập thể sư phạm.

Liệu tháng 10 chúng ta đã có thể công bố dự thảo chương trình bộ môn để lấy ý kiến dư luận chưa, thưa ông?

Chúng tôi đang quyết tâm thực hiện. Trong tháng 8 vừa qua, Ban soạn thảo đã tổ chức 18 hội thảo lần lượt lấy ý kiến chuyên gia chương trình từng môn học. Đến nay, Ban soạn thảo đã có dự thảo lần thứ hai của các môn học. Các dự thảo này sẽ được chuyên gia và giáo viên các cấp góp ý lần nữa. Sau đó, chúng tôi sẽ trình Ban chỉ đạo đổi mới CT, SGK của Bộ GDĐT. Nếu được Ban chỉ đạo đồng ý, chúng tôi sẽ đưa lên cổng thông tin của Bộ GDĐT và các phương tiện thông tin đại chúng để xin ý kiến các tầng lớp nhân dân.

Xin cảm ơn ông!