Sau lễ khởi động hôm nay sẽ có nhiều khóa tập huấn cho cán bộ kiểm lâm vườn về tác nghiệp hiện trường và thực thi pháp luật cơ bản theo tiêu chuẩn Kiểm lâm châu Á, theo dõi da dạng sinh học bằng bẫy ảnh do WWF-Việt Nam hỗ trợ thực hiện.
Ngoài ra, công cụ theo dõi và báo cáo hiện trường - Spatial Monitoring and Reporting Tool (SMART) sẽ được triển khai toàn diện ở Vườn Quốc gia Yok Don để thu thập dữ liệu, giám sát loài và quản lý hoạt động tuần tra một cách chuyên nghiệp. Công cụ này đang được áp dụng hiệu quả ở các khu bảo tồn thiên nhiên trên thế giới, trong đó có hai khu bảo tồn Sao La ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế. SMART được Tổng cục Lâm Nghiệp đánh giá cao và đang có một chương trình riêng triển khai ở tất cả các vườn quốc gia.
Tây Nguyên có đàn voi rừng lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 70% quần thể voi rừng toàn quốc. Đàn voi này cũng là nguồn hy vọng lớn nhất về bảo tồn do số lượng cá thể còn nhiều nhất, cơ cấu đàn cho thấy dấu hiệu phục hồi và nguy cơ đồng huyết cận huyết ít hơn các đàn khác trong cả nước. Vì vậy cứu được đàn voi rừng Tây Nguyên là bảo tồn hiệu quả quần thể voi rừng châu Á của Việt Nam. Tuy nhiên, theo đánh giá của Tổng cục Lâm nghiệp, quần thể voi hoang dã ở Việt nam đã giảm khoảng 95% sau 40 năm (1975-2015). Riêng ở Đắk Lắk, trong vòng 8 năm (2009 – 2016) đã có ít nhất 23 cá thể voi rừng bị chết, so với con số ước tính tổng đàn chiếm khoảng 25%, gần 75% trong số voi chết là voi con dưới một tuổi.
Nạn buôn bán trái phép nhưng công khai các sản phẩm ngà voi, lông đuôi voi, da voi, đế chân voi ở các trung tâm du lịch, các quầy bán hàng lưu niệm trên toàn tỉnh và sân bay Buôn Mê Thuột cũng là mối đe dọa đối với voi rừng Yok Don. Voi đực bị săn trộm lấy ngà ảnh hưởng đến cơ cấu đàn, ảnh hưởng đến tập tính của cả đàn và về lâu dài voi sẽ tự tuyệt chủng. Các hoạt động phát triển và sinh kế trên lâm phần của các công ty lâm nghiệp vốn là hành lang di chuyển của voi cùng vấn đề di dân tự do đang đẩy mâu thuẫn voi – người ở Đăk Lắk ngày càng thêm căng thẳng.
Theo TS Văn Ngọc Thịnh, Giám đốc WWF-Việt Nam “đây là cơ hội cuối cùng để cứu quần thể voi tại Việt Nam, nếu không số phận của chúng có thể sẽ giống như tê giác Java một sừng, tuyệt chủng tại Việt Nam năm 2010 hoặc loài hổ, hiện không tìm được dấu vết sinh sản nào ngoài tự nhiên trong những năm gần đây”. Song song với việc đẩy mạnh thực thi pháp luật, ông Thịnh cho biết, WWF Việt Nam sẽ hỗ trợ việc theo dõi đa dạng sinh học và tập tính di chuyển theo mùa của quần thể voi hoang dã cũng như cảnh báo sớm sự xuất hiện của voi cho người dân và các biện pháp can thiệp thân thiện voi – người.