Sáng 14/4, tại phiên họp thứ 10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42 ngày 21/6/2017 của Quốc hội và đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm.
Trình bày báo cáo, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 42, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đã được xử lý, kiểm soát và tỷ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2%. Lũy kế từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (15/8/2017) đến ngày 31/12/2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu.
Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 196,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 51,79%); các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán là 100,8 nghìn tỷ đồng (chiếm 26,51%); các khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 82,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,70%).
Cùng với đó, VAMC đã mua được 339 khoản nợ theo giá trị thị trường với 193 khách hàng với dư nợ gốc đạt 11.723 tỷ đồng và giá mua nợ đạt 11.822 tỷ đồng; thu hồi nợ đạt 120.738 tỷ đồng; tổ chức đấu giá thành công 22 tài sản với tổng giá trị trúng đấu giá đạt 2.516 tỷ đồng.
Dù xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã đạt được tích cực, nhưng theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, trên thực tế vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Trong đó, có khó khăn, vướng mắc từ công tác thực thi, phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành, địa phương về mua, bán nợ xấu của tổ chức mua, bán nợ; hỗ trợ thu giữ tài sản bảo đảm; tiếp cận thông tin về tình trạng tài sản bảo đảm; thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm...
Cạnh đó, là những khó khăn, vướng mắc từ chính quy định tại Nghị quyết số 42 như quy định chỉ áp dụng thủ tục rút gọn với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, VAMC mà chưa quy định được áp dụng thủ tục rút gọn với các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng với khách hàng vay.
Trong khi đó, các tranh chấp của các khoản nợ xấu tại các tổ chức tín dụng hầu hết là các tranh chấp về hợp đồng tín dụng. “Việc không quy định thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp về hợp đồng tín dụng gây rất nhiều khó khăn, hạn chế cho các tổ chức tín dụng trong việc xử lý nợ xấu”, Thống đốc Ngân hàng cho hay.
Đề cập đến bối cảnh thời gian tới, theo bà Hồng, đến 31/12/2021, trường hợp đánh giá một cách thận trọng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC và các khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu ở mức cao (so với tổng dư nợ) là 6,31% (khoảng 813 nghìn tỷ đồng). Đáng lưu ý, nợ xấu chưa xử lý theo Nghị quyết số 42 vẫn ở mức cao là 412,7 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh đó, sau khi xử lý được khối lượng lớn nợ xấu trong năm 2018, 2019, tốc độ xử lý nợ xấu trong năm 2020 và năm 2021 có xu hướng chậm lại, trong đó xử lý nợ xấu theo hình thức khách hàng tự trả nợ giảm do dịch bệnh COVID-19 đã tác động bất lợi đến tình hình tài chính của khách hàng. Chính phủ kiến nghị, đề xuất Quốc hội ban hành Luật Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định, bền vững cho việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Trong khi chờ luật, Chính phủ đề nghị Quốc hội thông qua nghị quyết kéo dài thời gian áp dụng Nghị quyết 42 thêm 2 năm (đến hết ngày 15/8/2024) theo thủ tục rút gọn tại kỳ họp tháng 5/2022.
Trước đó, phát biểu khai mạc phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá, Nghị quyết 42 đã mang lại nhiều chuyển biến quan trọng trong xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu tổ chức tín dụng. Chủ tịch Quốc hội đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội tập trung cho ý kiến đánh giá vai trò và kết quả của Nghị quyết 42, nếu còn vướng mắc thì ở chỗ nào.
Đặc biệt, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ bổ sung đánh giá nợ xấu phát sinh mới từ ngày Nghị quyết 42 có hiệu lực. Theo Chủ tịch Quốc hội, cần đánh giá kỹ xem trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan liên quan đến đâu, từ đó mới xem xét cho kéo dài Nghị quyết 42 hay không, nếu có thì cho bao lâu.