“Xanh hóa” chuỗi cung ứng:

Thách thức mới cho doanh nghiệp dệt may, da giày - Bài 1

TPO - Theo các chuyên gia và doanh nghiệp, ngành dệt may, da giày đang đối mặt sức ép lớn từ các nhãn hàng lớn liên quan đến những yêu cầu càng ngày càng khắt khe hơn liên quan đến việc “Xanh hoá” trong sử dụng năng lượng, tuần hoàn, tái chế chất thải, thiết kế sản phẩm, sử dụng nguyên vật liệu ít tác động đến môi trường.

Chia sẻ tại tọa đàm “Động lực “Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may, da giày” do tạp chí Công Thương tổ chức ngày 28/10, ông Lê Xuân Thịnh - Giám đốc Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) cho rằng, doanh nghiệp dệt may, da giày Việt Nam hiện đã tham gia sâu rộng vào trong chuỗi giá trị toàn cầu với các sản phẩm dệt may được xuất khẩu đến hơn 100 thị trường. Cùng với thị trường rộng mở, các doanh nghiệp dệt may trong nước cũng đang chịu “sức ép” phải đáp ứng các xu hướng, tiêu chuẩn mới về môi trường, giảm phát thải khí nhà kính.

Theo ông Thịnh, với dệt may, chúng ta đang phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2 hằng năm. Như vậy phải có lộ trình cắt giảm. Trong Thông tư 13/2024 của Thủ tướng Chính phủ vừa công bố, các doanh nghiệp phải kiểm kê khí nhà kính. Trong đó có khoảng gần 100 doanh nghiệp dệt may, da giày phải kiểm kê khí nhà kính để hướng tới phát thải ròng bằng 0”.

Về việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn mới ngày càng cao hơn, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso) cho rằng, ngành công nghiệp da giày cũng là ngành hội nhập rất lớn, vì thế việc đáp ứng các yêu cầu của chuỗi cung ứng với các tiêu chuẩn bền vững, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn cũng đã thực hiện. Tuy nhiên, có thể thấy trước đây, yêu cầu về phát triển bền vững chủ yếu là do các nhãn hàng đặt ra nhưng đến nay thì đã được Luật hóa. Với ngành công nghiệp da giày, các thị trường chính như Mỹ, EU,… là những thị trường đòi hỏi rất cao.

“Vừa rồi, thị trường EU cũng bắt đầu đưa ra những yêu cầu về chuyển đổi xanh, đặc biệt là một loạt đạo luật đã được ban hành. Cụ thể như đạo luật tra soát chuỗi cung ứng hay đạo luật về chống phá rừng đã được thực hiện. Sắp tới, hàng loạt các đạo luật mới như đạo luật về trách nhiệm mở rộng đối với nhà sản xuất, dán nhãn sinh thái, thiết kế sinh thái và hàng loạt các yêu cầu như vậy. Chúng ta có thể thấy rằng, đây là một trong những thách thức rất lớn đối với ngành da giày khi mà 2 thị trường này chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu”, bà Xuân cảnh báo.

Ngành da giày cũng phải đối mặt nhiều thách thức mới trong quá trình 'Xanh hoá'

Điểm khác biệt trong chuỗi cung ứng xanh của ngành da giày, theo đại diện Lefaso, ngành da giày cũng là một ngành thời trang, vì vậy, sẽ phải phát triển từ khâu đầu tiên là khâu thiết kế.

Dẫn ví dụ của hãng Nike, theo bà Xuân, họ đã đưa ra 10 quy tắc đối với khâu thiết kế. Mục đích là để ngay từ khi xây dựng ý tưởng, chúng ta phải hướng tới việc lựa chọn những vật liệu thân thiện với môi trường cũng như kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất, làm sao đảm bảo phát thải ít nhất, cũng như tái sử dụng được các vật tư, nguyên phụ liệu trong quá trình sản xuất. “Tôi thấy đây là một điểm khác biệt trong điều kiện để xanh hóa quá trình sản xuất đối với mặt hàng dệt may, da giày”, bà Xuân nói.

Bên cạnh nỗ lực để “xanh hóa” nguồn cung nguyên phụ liệu, xanh hóa quy trình sản xuất, bà Xuân cho rằng, mỗi ngành sản xuất sẽ có một đặc thù và khó khăn riêng trong quá trình chuyển đổi. Như với ngành da giày, sản phẩm đến 90% là xuất khẩu. Bản thân các thương hiệu lớn, các nhãn hàng lớn cũng phải có cam kết toàn cầu về cắt giảm phát thải cũng như đảm bảo xanh hóa toàn chuỗi cung ứng nên bắt buộc các nhà máy, những nơi đang triển khai các đơn hàng sẽ phải thực hiện theo. Nếu không thực hiện, chắc chắn các đơn hàng sẽ ra khỏi Việt Nam.

“Khi thực hiện các hoạt động xanh hoá, doanh nghiệp được nhiều điểm lợi: Sản phẩm thời trang của ngành dệt may, da giày được các nước, đặc biệt là người tiêu dùng các nước biết đến, và các sản phẩm made-in-Vietnam rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, chúng ta thiếu một giải pháp tổng thể, định hướng cho các doanh nghiệp trong quá trình phát triển bền vững, từ việc xây dựng tiêu chí xanh là như thế nào, cho đến toàn bộ quá trình, chương trình để thực hiện, hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao được nội lực cả về nguồn lực cũng như nhân lực”, đại diện Lefaso nói.

Doanh nghiệp phải đón đầu các xu hướng

Để đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, bà Nguyễn Thị Minh Hải - Trưởng ban Phát triển bền vững Công ty CP (Tổng công ty may Bắc Giang cho biết, thời gian qua công ty đã có những hoạt động hiệu quả trong chuyển đổi xanh, đáp ứng các yêu cầu của các thị trường. Đặc biệt Công ty đã sớm xây dựng các tiêu chí và được cấp chứng chỉ “Nhà máy xanh”.

Theo bà Hải, cũng giống như các doanh nghiệp dệt may khác, LGG cũng nằm trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu. Những tiêu chuẩn xanh hóa của các khách hàng nhập khẩu thì đặt ra ngày càng chặt chẽ hơn, từ đó đòi hỏi mức độ nhận diện, ngăn chặn cũng như giảm thiểu và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường và xã hội ngày càng cao. "Xu hướng “xanh hóa” trở nên tất yếu đối với tất cả các khâu, cũng như các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may”, bà Hải nói.

Đại diện LGG cho hay, ngay từ đầu ban lãnh đạo công ty đã xác định doanh nghiệp phải tiên phong trong vấn đề xanh hóa cũng như phát triển bền vững và khi tham gia vào trong chuỗi cung ứng dệt may. Doanh nghiệp cũng coi đây là cơ hội để tiếp cận với chuỗi sản xuất minh bạch hơn, tiếp cận và tăng cường mối quan hệ hợp tác với chuỗi sản xuất xanh, đồng thời có cơ hội tiếp cận với các phương thức sản xuất tiên tiến, với công nghệ tốt hơn, sử dụng các nguồn năng lượng sạch đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong tương lai.

“Tại LGG, ngay từ rất sớm, khi xây dựng những nhà máy, những dự án mới thì ban lãnh đạo cũng đã tập trung vào đầu tư xây dựng hệ thống năng lượng mặt trời, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo. Đến thời điểm hiện tại, với số công suất nguồn điện năng lượng mặt trời cung cấp có thể đáp ứng vào những tháng cao điểm khoảng 40% lượng điện tiêu thụ của toàn nhà máy. Ngoài ra, tại LGG cũng có sử dụng những biện pháp để tiết kiệm năng lượng, ví dụ như chuyển toàn bộ hệ thống đèn huỳnh quang trước đây sang hệ thống đèn LED hoặc có những chính sách về tiết kiệm năng lượng để phổ biến cho toàn bộ cán bộ, công nhân viên”, đại diện LGG cho hay.

Bên cạnh đó, công ty cũng áp dụng những chính sách về chuyển đổi năng lượng, chuyển sang sử dụng lò hơi đốt nhiên liệu sạch biomass, sử dụng các hóa chất thân thiện hơn với môi trường và đảm bảo an toàn cho người lao động. Nước thải đầu ra có thể tái sử dụng cho việc trồng cây hoặc là nuôi cá. Nhà máy cũng chú trọng việc đánh giá những chứng chỉ về tái chế toàn cầu, chứng chỉ về sử dụng nguyên liệu tái chế hoặc chứng chỉ lông vũ có trách nhiệm và rất nhiều chứng chỉ về trách nhiệm xã hội khác mà khách hàng yêu cầu trong quá trình tham gia vào chuỗi cung ứng và hàng loạt những hoạt động về nâng cao nhận thức của người lao động.

“Khi tham gia vào chuỗi cung ứng xanh cũng như thực hiện những hoạt động về phát triển xanh, phát triển bền vững thì lợi ích đầu tiên chúng tôi nhận thấy đó là doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Ngoài ra còn nâng cao được mức độ nhận diện của doanh nghiệp đối với khách hàng. Vị thế của doanh nghiệp cũng được cải thiện, năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác cũng được khách hàng đánh giá cao”, bà Hải chia sẻ.