Vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, khi đế chế Achamenes thôn tính hầu hết các nước Trung Cận Đông trải từ bờ đông Địa Trung Hải tới vùng Trung Ấn, Shiraz được chọn làm kinh đô. Suốt từ năm 518 TCN, dưới triều Cyrus đại đế, giữa một vùng núi đá granit màu gan gà, sừng sững mọc lên một cung điện nguy nga tráng lệ, mà nếu ai chưa đến đây, sẽ không thể tưởng tượng nổi. Người Việt mình, nhất là những ai quê Thanh Hóa, từng tự hào có một Thành nhà Hồ ở Tây Đô. Một thành đá được Hồ Quý Ly cho gấp rút xây từ những năm 1396 - 1400, với những tảng đá nguyên khối vuông vức hàng hai, ba mét khối, xếp chồng khít lên nhau, đã thấy cha ông mình quá vĩ đại. Nhưng tường thành Tây Đô chỉ cao chừng hai mét.
Tường thành ở đây, cũng từ đá nhưng gồm nhiều khối đá to hơn, cao gấp nhiều lần. Và kỳ vĩ hơn là nó trải rộng một không gian hàng trăm ngàn mét vuông, từ sườn núi lên cao mãi là những bậc lên, những quảng trường, cung điện, những cổng thành với những bệ đá tạc nhân sư, nhân mã như thời Ai Cập cổ đại. Cột đá chạm trổ hoa văn tinh vi đường kính chừng hai mét, cao chót vót vài ba chục mét. Bây giờ, giữa ngổn ngang những khối đá bị con người và thời gian phá hủy, người ta đang phục chế lại từng phần, nhưng vẫn còn hầu như nguyên vẹn những mảng tường được điêu khắc chạm trổ hình ảnh sinh hoạt, ngoại giao, văn hóa… thời cổ đại với một nghệ thuật bậc thầy. Tài năng, sức sáng tạo và công sức của con người ba ngàn năm trước mới kì diệu làm sao…
Khuân tấm bia đá từ đất Mẹ chuẩn bị cho lễ đặt lên mộ của Alexandre de Rhodes
Đế chế Ba Tư phát triển hùng mạnh nhất là thời Darius đại đế, thế kỷ thứ IV TCN. Vào năm 356 TCN, Alexandros ra đời, để rồi hai mươi năm sau trở thành Alexandros đại đế của đế chế Macedonia của người Hy Lạp. Năm 334 TCN, quân Macedonia do Alexandros chỉ huy tiến đánh Ba Tư, làm cỏ một vùng đất từ Địa Trung Hải sang vùng Lưỡng Hà, chiếm Babylon rồi tiến sang Persepolis. Trận vượt sông Granius lừng danh vào năm 330 TCN, đội quân bách chiến của Alexandros tiêu diệt 20.000 bộ binh và 2.500 kỵ binh của Darius đại đế mà chỉ mất 34 người (!)
Thành Persepolis nguy nga bị thiêu trụi, lửa cháy hàng tháng trời… Để rồi hai ngàn ba trăm bốn mươi tám (2348) năm sau, chúng tôi đến đây, đặt chân lên những phiến đá còn đẫm mồ hôi và máu người, còn nóng rực hơi lửa chiến tranh, và ngơ ngẩn giữa những thành quách đổ nát, mà trầm trồ thán phục, mà nuối tiếc, mà kinh hãi trước sức sáng tạo vô biên và sự tàn khốc khủng khiếp của con người…
Giã từ Persepolis, chúng tôi đi dọc đường cao tốc qua trùng trùng núi cằn và hoang mạc, lên Isfahan. Bây giờ thì chúng tôi toàn tâm toàn ý cho hai ngày trọng đại sắp tới. Thùng xe biến thành phòng tập hợp xướng. Từ lúc nào “nhạc trưởng” Nguyễn Mạnh Tiến đã in sẵn cho mỗi người một bản lời bài “Tình ca” của nhạc sỹ Phạm Duy.
“Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời, người ơi.
Mẹ hiền ru những câu xa vời. À ơi, tiếng ru muôn đời…”
Hai mươi con người, người già nhất 77, người trẻ nhất là con trai nữ bác sĩ Nhữ Phương, chàng sinh viên mới ra trường Trương Hoàng Nhân, 24 tuổi, ai cũng rưng rưng nghĩ về quê mẹ Việt Nam, cùng bật ra từ trái tim những lời thổn thức.
“… Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh/ Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình/ Nhìn trùng dương hát câu no lành…”.
“… Tấm áo nâu, những mẹ quê chỉ biết cần lao/ Những trẻ quê bạn với đàn trâu, áo ơi/ Tấm áo nâu, rướn mình đi từ cõi rừng cao/ Dắt dìu nhau vào đến Cà Mau, áo ơi…”.
Đi xa, càng thêm nhớ về quê Việt. Lời ca và giai điệu thổn thức lòng người. Đoàn lữ khách chúng tôi ghé vào một trạm nghỉ giữa đường để ăn trưa. Ẩm thực của xứ Ba Tư ngày nào cũng giống ngày nào: Cơm hấp khô, bánh mì lát, thịt xay, cá hấp, bắp cải cà rốt trộn xa lát,… Thứ gì cũng chua tới mức các nàng thai nghén cũng chào thua, tưởng như họ đổ hàng bát chanh vắt vào mỗi món ăn. Mấy ông quen có vại bia, tí cay mỗi bữa thì sang đây như bị triệt sản.
Hầu như không nhà hàng nào bán bia rượu. Có một thứ nước chua có ga có thể thay thế, nhưng thà đừng uống còn hơn. Tối qua tại Shiraz, mấy gã sâu bia gọi mãi, nhà hàng mới xì ra một loại bia cỏ, khi tính tiền mới thấy đắng hơn cả nhân sâm: 10 USD một ly chừng 250 ml (!) Ngồi xuống mâm tiệc Ba Tư là các nàng lại ngẩn ngơ như nhớ một cái gì. Ai cũng nghĩ đến bát phở bò, phở gà nghi ngút khói. Chao ôi, giờ mà được ăn một tô bún riêu, một bát canh cá với rau điên điển trong mùa nước nổi Nam bộ, được xì xụp chan húp bát canh cua đồng, được nhìn thỏa mắt một đĩa rau muống luộc xanh rờn… Không còn nghi ngờ gì nữa, ẩm thực Việt Nam nhất thế giới.
Ở Isfahan, chúng tôi có một ngày chuẩn bị cho buổi lễ trọng đại. Đoàn có thêm ông Hojat, bà vợ và hai con trai Emad và Moin. Emad Sadeqzadeh cao kều đang là thạc sỹ công nghệ, mấy ngày qua xin nghỉ việc cơ quan, thay cha dẫn đoàn thăm Shiraz. Moin Sadeqzadeh ngược hẳn anh trai, thanh mảnh thư sinh, từng theo học mười năm âm nhạc ở Istanbul, hát hay như nghệ sỹ, sử dụng thành thạo hai mươi nhạc cụ, đặc biệt là bộ trống truyền thống Iran. Từ đây, những người Iran này đã thực sự hòa nhập cùng đoàn chúng tôi, như một gia đình lớn, chia sẻ và tin cậy.
Phiến đá bia tưởng niệm từ Quảng Nam, kết tinh hồn sông núi, máu xương xứ Việt đã theo đường không, đường bộ chục ngàn cây số, được các chàng trai, được trưởng đoàn Nguyễn Đăng Hưng và lần lượt từng thành viên trong đoàn, rồi cả gia đình vợ chồng và hai con trai ông Hojat, cả mấy người quản trang, cùng ghé tay chuyển đến phần mộ, để lắp đặt đúng vị trí như đã trù định. Ngôi mộ đá mấy trăm năm bị lãng quên, tưởng như bỗng có linh hồn, như một thỏi nam châm, có sức hút và sự liên kết tâm linh kỳ lạ. Ai cũng muốn được chạm tay, được có một tấm hình, có người lặng lẽ gói một nắm cát…
Dường như mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất. Buổi chiều thần tiên ấy chúng tôi tự thưởng cho mình một chuyến du ngoạn, khám phá con người và văn hóa Iran.
(Còn nữa)
Người nằm dưới ngôi mộ đá kia dường như chính là tổ tiên, dòng tộc của nhóm người Việt đột ngột xuất hiện ở nghĩa trang này. Ông là một người Việt tha hương, một người mang dòng máu, tâm hồn Việt, từng và đang ký gửi lại cho họ một thứ gì đó, như báu vật, như khế ước, như hương hỏa…