Trong số 27 sân golf nằm ngoài quy hoạch này, 5 dự án đang triển khai xây dựng, 5 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư trước khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Theo Bộ KH-ĐT, việc có 27 sân golf (riêng Phú Quốc, Kiên Giang có 5 dự án) nằm ngoài quy hoạch, trách nhiệm trước hết thuộc về UBND các tỉnh có dự án đã không thực hiện nghiêm quyết định của Thủ tướng.
Theo quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt, cả nước có 90 sân golf ở 34 tỉnh, thành phố (trước khi có quy hoạch, có 166 sân golf). Khi xây dựng xong quy hoạch đã loại ra 76 sân golf vì không đáp ứng được các tiêu chí, điều kiện hình thành sân golf; thu hồi trên 15.600 ha đất các loại. Theo Bộ KH-ĐT, trong số 90 sân golf, 24 sân đang hoạt động, 25 đang xây dựng, 13 được cấp giấy phép chứng nhận đầu tư; 23 được chấp nhận chủ trương đầu tư và 5 bị đề nghị đưa ra khỏi quy hoạch.
Theo Bộ KH-ĐT, có 13/59 chủ đầu tư sân golf (chiếm 22%) sử đụng đất đúng mục đích, ranh giới, diện tích được giao, xây dựng các hạng mục công trình đúng theo dự án và quy hoạch chi tiết xây dựng.
Có 46/59 chủ đầu tư (chiếm 78%) xây dựng các hạng mục công trình chậm so với dự án được duyệt; hồ sơ về đất đai chưa đúng với thực tế sử dụng đất; xây dựng sân golf khi quy hoạch chi tiết chưa được phê duyệt; đất nhà nước giao, cho thuê nhưng không sử dụng, chưa ký hợp đồng thuê đất, nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định; tiến độ giải phóng mặt bằng chậm.
Hiệu quả kinh doanh thấp
Theo Bộ KH-ĐT, tổng vốn đăng ký của 90 dự án sân golf là 24,5 tỷ USD; trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 20,5 tỷ USD (chiếm 84%), vốn trong nước là gần 4 tỷ USD (chiếm 16%). Dù vốn đăng ký cao nhưng vốn thực hiện lại rất thấp. Tính riêng 24 dự án sân golf đã đi vào hoạt động, chỉ mới giải ngân được 75,6 triệu USD.
Trong khi đó, hiệu quả đầu tư của các dự án sân golf hoặc có mục tiêu sân golf hiện nay chủ yếu là từ việc kinh doanh bất động sản (bán và cho thuê biệt thự trong khu vực dự án) và bán thẻ hội viên. Nếu chỉ tính kinh doanh dựa trên việc thu phí chơi golf từ khách hàng (khoảng 100 USD/ngày/lượt) thì hiệu quả chưa cao, chậm thu hồi vốn.
Cụ thể, trong số 90 dự án sân golf nằm trong quy hoạch, chỉ có 21 dự án kinh doanh sân golf, 69 dự án còn lại kết hợp kinh doanh sân golf và bất động sản, khu du lịch, trong đó sân golf chỉ là một dự án thành phần. Nhiều dự án chiếm nhiều đất nhưng diện tích xây dựng sân golf lại nhỏ.
Dự án sân golf tại huyện Tam Nông (Phú Thọ) có diện tích hơn 2.000 ha nhưng diện tích xây dựng sân golf chỉ có 171 ha. Dự án Khu du lịch quốc tế Tản Viên (Hà Nội) có diện tích 1.204 ha, trong khi điện tích xây dựng sân golf chỉ 222 ha.
Theo Bộ KH-ĐT, nhiều dự án sân golf được chính quyền địa phương giao đất từ lâu nhưng chủ đầu tư chậm triển khai do thiếu vốn hoặc do khó khăn trong giải phóng mặt bằng. Tại một số địa phương, có những dự án có diện tích đất dành cho quy hoạch sân golf lớn nhưng vốn đầu tư lại nhỏ, suất đầu tư tính trên một héc ta đất thấp.
Tại Lâm Đồng, sân golf Đạ Ròn chỉ có 18 triệu USD/750 ha; sân golf Bảo Lộc 18 triệu USD/254 ha. Tại Quảng Bình, sân golf Phong Nha 8 triệu USD/400 ha; sân golf suối Bang 11 triệu USD/820 ha.
Theo đánh giá của Bộ KH-ĐT, sở dĩ có những sai phạm trên là do công tác kiểm tra, giám sát của các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế. Chưa phát hiện các điểm bất hợp lý để đề xuất điều chỉnh quy hoạch. Chưa tạo sự đồng thuận cao của cộng đồng trong xây dựng sân golf. Ngoài ra, việc đánh giá, kiểm tra năng lực nhà đầu tư còn hạn chế dẫn đến tiến độ một số dự án chậm.
Kiến nghị quy hoạch cứng đến 2020 là 118 sân golf
Bộ KH-ĐT kiến nghị lên Thủ tướng ba phương án: Giữ nguyên số lượng sân golf đến năm 2020, bổ sung một số sân đáp ứng điều kiện hình thành và tiêu chí xây dựng sân golf, điều chỉnh tổng thể một lần, quy hoạch cứng số lượng sân golf đến 2020.
Bộ KH-ĐT kiến nghị Thủ tướng chấp nhận phương án quy hoạch cứng số lượng sân golf đến 2020 là 118 sân, gồm 85 sân đã có trong danh mục quy hoạch, bổ sung 33/39 sân golf nằm ngoài danh mục đã quy hoạch.