> Thầy cô nơi lòng hồ thủy điện Bản Vẽ
> Lớp học đặc biệt ở 'phố chị Dậu' bên sông
Chuyện cổ kể lại
Già làng người Đan Lai bao đời nay vẫn truyền lại cho con cháu truyền thuyết về tộc người mình. Chuyện rằng, ở miền Hoa Quân, nay thuộc huyện Thanh Chương có một tên bạo chúa tàn ác khét tiếng.
Một hôm, tên bạo chúa bắt dòng họ Lê phải vào rừng tìm cho ra “100 cây nứa bằng vàng, một chiếc thuyền liền mái chèo”, nếu không tìm được sẽ tàn sát cả họ.
Biết chẳng thể tìm được trăm cây nứa vàng và chiếc thuyền liền chèo, trong đêm tối mịt mùng, cả làng họ Lê gồng gánh cùng nhau chạy trốn lên núi. Đoàn người chạy mãi, chạy mãi vào nơi sơn cùng thủy tận, ngược nguồn sông Giăng đến nơi không còn nghe thấy tiếng người mới dừng chân.
“Theo dấu chân nai/ Tra vào hạt lúa/Theo dấu chân cọp/Bỏ vào hạt ngô/Lang thang đầu núi/Đìu hiu lưng đèo/Sống đời nghèo khổ/Như dòng suối nhỏ/Như gió rừng chiều…”, cuộc sống tăm tối chốn rừng thiêng nay đây mai đó với măng rừng, củ mài, người Đan Lai thường chặt lá chuối dựng lều du canh du cư và sau vài lần lá chuối trên mái lều ngả sang màu vàng, họ lại rời đất cũ đi khai hoang vùng đất mới. Tránh bị đám sai nha của tên bạo chúa truy sát, người Đan Lai đổi từ họ Lê sang họ La, mai danh ẩn tích.
Cuộc thiên di bất hạnh hơn 600 năm trước nơi miền rừng xa thẳm, qua bao thăng trầm, biến động nhưng đến nay một bộ phận người Đan Lai vẫn giữ được hai tập tục kỳ lạ: Nhúng trẻ sơ sinh vào nước lạnh ngay khi vừa chào đời và…ngủ ngồi.
“Xưa, thượng nguồn sông Giăng cọp dữ nhiều lắm. Nhiều người nửa đêm bị cọp bắt đi, tha vào rừng ăn thịt. Đề phòng thú dữ, nghe tiếng động là có thể vùng chạy thoát thân, bà con phải ngủ ngồi. Hơn nữa, mùa lạnh nhà nhà phải nhóm bếp than sưởi ấm. Ngồi bên bếp lửa, tay chống vào cằm, tay chống que cời than, ngủ ngon lành. Ngủ thế quen rồi!”, Bí thư Chi bộ bản Cò Phạt La Văn Yêu bảo.
Tôi hỏi ông Yêu: “Người Đan Lai hiện nay có còn ngủ ngồi nữa không?. Bí thư Chi bộ Cò Phạt nói: “Cũng ít đi rồi! Cuộc sống khá hơn, ai cũng có giường chiếu, nên ít ngủ ngồi!”.
Tập tục nhúng trẻ sơ sinh vào nước lạnh thì hầu như vẫn còn phổ biến. Đứa bé vừa cất tiếng chào đời, người mẹ lập tức nhúng vào nước khe, nước suối, cho dù ngoài trời nóng nực hay lạnh giá. “Đứa nào khỏe, vượt qua được rét mướt thì sau này sẽ khỏe mạnh. Hơn nữa làm như thế cũng là cách để vệ sinh thân thể cho trẻ mới sinh ra”, một người dân Đan Lai cho hay.
Trở lại sông Giăng
Nghèo khổ đeo bám triền miên, dai dẳng, một thời gian dài nguồn sống chủ yếu của tộc người nhỏ bé nơi thâm sơn cùng cốc chủ yếu là sắn. Cái đói rình rập, đường chữ bấp bênh, số người Đan Lai có trình độ CĐ- ĐH chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Hầu hết người Đan Lai sau khi học xong đều quay về bản truyền chữ cho con em đồng bào mình: Nhà giáo ưu tú La Văn Bốn (xã Châu Khê, huyện Con Cuông); Thầy giáo La Văn Thám; Cô giáo La Thị Hương, La Thị Hằng (xã Môn Sơn)...
Vào Cò Phạt, bản Búng, nơi có tộc người Đan Lai sinh sống phương tiện duy nhất là đi thuyền ngược dòng sông Giăng vào Khe Khẳng. Dòng sông uốn lượn, đường nước quanh co và lắm thác ghềnh hiểm yếu.
Hai giờ đồng hồ ngồi trên thuyền, chứng kiến những pha lượn lách rùng rợn, thót tim giữa lởm chởm đá núi, ai cũng mong cho mũi thuyền sớm cán đích. Trên dòng chảy hiểm yếu này đã xảy ra nhiều vụ thuyền lao vào vách đá, thuyền đâm vào đá ngầm hoặc lật khi vào vòng xoáy mùa mưa lũ.
Cách đây khá lâu, một nhà báo đã tử nạn trên đường vào với người Đan Lai. Nguy hiểm như vậy, nhưng ngày nào cũng có hàng chục chuyến thuyền vào ra.
Thanh niên tình nguyện, các đoàn cứu trợ đến từ các tỉnh xa xôi, và cả những thầy cô giáo băng rừng gùi chữ đến với học sinh nghèo nơi miền rừng xa thẳm. Dường như, nơi đến càng hiểm nguy, càng kích thích sự khám phá, càng hâm nóng bầu nhiệt huyết.
Chạng vạng, cán bộ Đoàn xã Nguyễn Văn Thảo dẫn chúng tôi ra nhà bán trú của các em học sinh Đan Lai ở trung tâm xã Môn Sơn. “Ở nhà, quanh năm ăn sắn, khổ lắm! Đi học ngày nào cũng được ăn cơm, lại có quần áo mặc cả ngày!
Đi học sướng hơn, chú ạ!”, em Lê Thị Đi, học sinh lớp 7, trú tại bản Búng bảo. Được trợ cấp tiền ăn học, số tiền ăn hàng tháng của học sinh Đan Lai nhà trường chuyển cho cô bảo mẫu nhà nội trú để mua thức ăn, lo cơm ăn hàng ngày cho các em.
Nước về, Đan Lai sẽ hồi sinh
Cái đói quay quắt, cái nghèo truyền kiếp đã từng là nỗi ám ảnh của người dân Đan Lai không chỉ mùa giáp hạt. Chục năm trước, củ sắn là món ăn ‘‘truyền thống’’ nơi thượng nguồn sông Giăng, như được truyền từ đời này sang kiếp khác.
Vào bản Búng, bản Cò Phạt trước năm 2000, lũ trẻ chúng tôi rớt nước mắt trước bữa ‘‘cơm’’ toàn sắn luộc của người dân bản địa. Thi thoảng, bữa ăn chiều tối lại được cải thiện bởi con cá mát dưới khe, miếng thịt lợn rừng hiếm hoi săn được.
Cốt yếu của người Đan Lai ổn định và phát triển bây giờ là nước cho canh tá. Kéo nước từ đập Phà Lài gần cánh đồng Mường Quạ về cho dân, cung ứng thủy lợi để làm xanh lại những cánh đồng hoang hóa là việc mà huyện Con Cuông đang làm. Có nước, cuộc sống trên vùng đất cằn khô sẽ sớm hồi sinh. ‘‘Đời sống của dân Đan Lai trong khe còn khó khăn lắm!’’, Bí thư Chi bộ La Văn Yêu nói.
Dân tái định cư tại hai bản Cửa Rào, Tân Sơn, dù nghèo nhưng dẫu sao nhiều gia đình vẫn có cơm ăn. Chỉ cần kéo nước về, người Đan Lai chịu khó ra đồng, là nhà nhà no ấm. Trưởng bản Tân Sơn, ông Hà Văn Cảnh cho biết bản có 21 hộ, gần 100 người dân Đan Lai. Khu vực này có 11,7ha đất canh tác, trong đó 4ha ruộng. Một diện tích đất như vậy có thể biến thành cánh đồng lúa, hoa màu trù phú nuôi dân.
Tiếng máy giòn tan, thoáng chốc thuyền đã rời bến Phà Lài, lao vun vút trên sông Giăng uốn lượn. Cô giáo La Thị Hằng lại rời cánh đồng Mường Quạ, gùi con chữ vào miền rừng heo hút truyền cho các em học sinh Đan Lai. ‘‘Năm sau, em lại ra Môn Sơn. Vài năm sau đó lại vào khe dạy học!’’, Hằng nói. Cuộc đời cô giáo, cứ âm thầm, nhẫn nại đi về trên khúc sông nhỏ bé…
Cuộc thiên di bất hạnh hơn 600 năm trước nơi miền rừng xa thẳm, qua bao thăng trầm, biến động nhưng đến nay một bộ phận người Đan Lai vẫn giữ được hai tập tục kỳ lạ: Nhúng trẻ sơ sinh vào nước lạnh ngay khi vừa chào đời và… ngủ ngồi.