Kỳ nhân Ngô Xuân Bính

TP - Biết gọi ông là gì đây? Gọi là giáo sư, viện sỹ vẫn chưa đủ bởi người ta nghe danh Ngô Xuân Bính là võ sư sáng lập môn phái võ Nhất Nam rồi phát triển dòng võ dân tộc này ở châu Âu. Ông, một thầy thuốc, đã dùng y thuật dân tộc chữa bệnh cho Tổng Bí thư Lào Kaysone Phomvihane..., Tổng thống Nga Boris Yeltsin cùng nhiều nguyên thủ quốc gia khác. Nhưng ông lại được quốc tế và Việt Nam công nhận lập nhiều kỷ lục trong các lĩnh vực hội họa, thơ, y học…
Võ sư Ngô Xuân Bính.

Kỳ 1: Xuất khẩu võ thuật tinh hoa

Cái đa tài của ông Ngô Xuân Bính thường được ví vui: “Súng bắn hai tay, lựu đạn quăng cả chùm”, nhưng lúc tôi ngồi trước kỳ nhân này, lại cảm nhận cái khiêm nhường, giản dị và kiệm lời khi kể về cuộc đời đầy chất tiểu thuyết với những câu chuyện chân thực mà ly kỳ.

Đam mê

Đi khắp thế giới, nhưng chất giọng Nghệ của ông vẫn đặc sệt, hơi trầm xuống khi nhớ lại tuổi thơ của mình và cơ duyên đến với võ. “Tôi nhớ những năm học ở thị xã Vinh (trước đây), vẫn ám ảnh bởi  thị xã toàn những ngôi nhà tranh nhỏ bé thường xẩy ra những trận cháy kinh hoàng. Chúng tôi phải sơ tán về huyện Hưng Nguyên để học. Tôi học giỏi cả Văn và Toán, nhưng được chọn vào đội tuyển thi học sinh giỏi Toán. Từ lớp 3, lớp 4 tôi mê võ thuật, thích  vật nhau, đấu đá chân tay với lũ bạn, nên hay bị thầy cô phạt”.

Thế rồi cậu học trò Ngô Xuân Bính cháu trực hệ của danh tướng Ngô Phan - người chém đầu tướng Liễu Thăng của quân Minh ở ải Chi Lăng - đã lọt vào “mắt xanh” của những ông chú và bô lão trong họ, vốn tinh thông môn võ “Hét” nổi tiếng vùng Thanh - Nghệ. Gọi là võ “Hét” vì khi ra đòn, người luyện võ thường hét to.

Môn võ dân tộc này tồn tại dưới dạng gia phái ở các làng xã vùng sông Lam, sông Mã và những võ sư đều ẩn danh. Xuất phát từ thể chất không cứng mạnh, võ sinh  không thể tập theo lối cương cường, mà tập trung vào luyện công và sự uyển chuyển để khắc chế võ Tàu.  Môn sinh tập nhiều về tránh né sao cho thật thuần thục để hóa giải các đòn đánh của đối phương, rồi chọn cơ hội tấn công vào đúng điểm hở, điểm yếu mà dứt điểm.

Các võ sư võ “Hét” đúc kết: “Học đạt cái tinh để chế cái nhiều, cái tĩnh để chế cái động, cái đột để phá cái ì, cái cong để chống cái cứng, cái thẳng để chống cái vòng...”.

Những năm ấy Ngô Xuân Bính ngày đi học, đêm về luyện võ với các cụ. Hình như có sự bàn ngầm giữa các cụ, họ cảm giác rằng nếu không dồn sức dạy võ cho Bính thì rồi  tinh hoa võ “Hét” sẽ mất đi. Khi đang học chuyên Toán, các cụ  vẫn từ quê lên dạy võ hằng đêm cho Bính.

Cứ 3 giờ sáng, Bính dậy luyện võ. Nhưng ngày đó không có đồng hồ, các cụ dặn nghe gà gáy canh hai phải dậy tập. Gần như cả đêm, cậu học trò đang tuổi ăn tuổi ngủ này phải thức chờ gà gáy. Có nhiều buổi học ở lớp, Bính không trả lời được câu hỏi của thầy giáo và thường xuyên ngủ gục. Nhưng hằng đêm hễ gà gáy canh hai lại luyện võ với thầy. Cứ thế bền bỉ đêm này qua đêm khác. Có những đêm tập nặng với các cụ, sáng đi dép cao su đến trường, dép dính bùn, Bính cảm thấy không đủ sức nhấc chân lên được.

Năm lớp 9, những động tác võ thuật của Ngô Xuân Bính đã trở nên điêu luyện, việc đánh ngã, khóa tay chúng bạn cùng trang lứa trở nên dễ dàng như lật bàn tay. Bạn bè cùng lớp hâm mộ và muốn Bính dạy võ cho. Bính  xin ý kiến các cụ, họ nói: “Những động tác đơn giản con có thể dạy, con phải biết cách dạy, tập dạy từ bây giờ đi”.

Bính chọn 5, 6 người bạn hợp với mình nhất để dạy võ. Hồi đó học trò  ít thú chơi, nên họ  học võ say mê lắm. Bính học nhiều nên quăng quật đấm đá vượt trội, chúng bạn rất nể phục...

Võ sư Ngô Xuân Bính luyện võ Nhất Nam với các học trò người Nga trên đất Nga.

Lan tỏa

Tốt nghiệp cấp 3, chẳng ngờ chàng trai giỏi võ này lại chọn trường nhạc họa vốn mềm mại và ra Hà Nội học. Sau đó, học tiếp Đại học Mỹ thuật Hà Nội và khi đang sinh viên, Ngô Xuân Bính lại đưa những đường quyền, ngọn roi của môn võ dân tộc để dạy cho các bạn, tạo nên một phong trào học võ sôi nổi. Cảm thấy võ học của mình đang đến độ chín, Bính tham gia Hội võ thuật Hà Nội – nơi toàn các cụ cây cao bóng cả, có các lò võ lừng danh. Năm ấy, chàng trai gầy gò mới 22 tuổi này khiến những cây cao bóng cả ngỡ ngàng khi múa võ. Những tư thế ngã, nhào lộn đẹp nhưng hết sức lạ mắt. Trong Hội võ thuật Hà Nội, có 11 người thì 10 người theo môn phái võ có nguồn gốc từ Trung Quốc. Môn võ  dân tộc của Ngô Xuân Bính lại được coi như một cơn gió lạ ngay trên đất Việt.

Ông nhớ lại: “Năm 1980 tôi tham gia công trình nghiên cứu lịch sử Võ thuật Việt Nam” của Tổng cục Thể dục thể thao. Tôi vác đến hai bó bản thảo mà tôi viết, vẽ về võ dân tộc. Bác Chiến - Tổng Cục trưởng Tổng cục Thể thao  lúc đó (người từng tham gia bảo vệ Bác Hồ) ngạc nhiên hỏi: “Của cậu viết  à”. Tôi bảo: “Bác không tin, để cháu vẽ luôn”. Bác Chiến mừng lắm, nói: “Từ nay cậu đừng xưng cháu với  tôi nữa, hãy xưng tôi, cậu ghê đây”.  Tôi nghiên cứu lịch sử võ học dân tộc thấy hầu như không có tư liệu, chứng cứ gì. Những vị tướng tài đều không hề biết ai là người dạy võ, các thầy dạy võ đều ẩn khuất trong dân gian hết. GS Trần Quốc Vượng - ở trong hội đồng chuyên môn -  nói: “Làm lịch sử võ học Việt Nam tôi không dám làm vì không có tư liệu, vậy mà  thằng Bính dám làm”. Có lúc tôi đã mặc quần đùi múa võ trước Hội đồng chuyên môn của công trình khoa học để thuyết phục họ. Ít khi một công trình khoa học lớn như vậy lại được giao cho người mới 22 tuổi”.

Võ sư Ngô Xuân Bính (phải) và học trò.

Năm 24 tuổi,  Ngô Xuân Bính đã thống nhất các gia phái, hệ phái võ “Hét” vùng Thanh- Nghệ thành môn phái võ “Nhất Nam” (với ý nghĩa quy tụ các bầu đoàn võ cổ Bắc Trung bộ thành một điểm riêng dưới trời Nam, một đứa con của làng võ Việt). Trải qua bao thế kỷ, môn võ dân tộc trời Nam xa xưa ẩn khuất sau lũy tre làng và dòng chảy dân gian, nay đã  trở nên chính danh và bắt đầu lan tỏa mạnh mẽ. Cũng năm đó, võ sư trẻ Ngô Xuân Bính cho ra đời hai tập sách đồ sộ “Nhất Nam căn bản”. Những hình vẽ  về các thế võ của một người vừa tốt nghiệp trường Mỹ thuật chính xác sinh động và đầy mỹ cảm.  Ngay cả những bô lão làng võ cũng kinh ngạc không hiểu vì sao một chàng trai trẻ lại có thể viết được hai cuốn sách dạy võ  dày cộp đến như vậy. Không mang màu sắc “bí kíp võ công” đầy bí ẩn như trong các truyện kiếm hiệp Trung Quốc, “Nhất Nam căn bản” hướng dẫn cách tập các thế võ dân tộc một cách đơn giản và thực tế nhất.

Hai  cuốn sách này đã được xếp giải: “Sách thể thao giá trị nhất và hay nhất” khối các nước XHCN tại Triển lãm sách ở Ba Lan năm 1988 và được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Ngày đầu “khai môn, lập phái” vào những năm 80 của thế kỷ trước  còn nhiều gian nan. Các buổi tập bắt đầu từ  3 giờ sáng ở công viên Thống Nhất, dù nắng hay mưa vẫn không ngừng nghỉ. Hết giờ, võ sư trẻ lại lọc cọc đạp xe đến các lớp võ mở tại  Bách khoa, Quần Ngựa, Hà Đông… Đêm, trong căn gác trọ tồi tàn ở phố Hai Bà Trưng, Ngô Xuân Bính ngồi viết  để hình thành hệ lý luận căn bản cho dòng võ Nhất Nam. Trong đó, xuyên suốt nhãn quan học võ không phải để thắng người, mà là để chiến thắng chính mình và  đưa ra một nguyên tắc hành xử của người học võ: “Nho nhã mà vẫn kỷ cương, uy vũ vẫn dư bình đẳng”.

Ông mời tôi uống trà đen của Nga, và kể tiếp câu chuyện về bước ngoặt cuộc đời  gắn liền cái duyên với xứ Bạch Dương: “Khi phong trào tập Nhất Nam bắt đầu được gây dựng mạnh mẽ và tương đối có tiếng vang ở Hà Nội thì tôi nhận được lời mời sang Liên Xô (cũ) làm việc. Những năm đầu của thập kỷ 90, với tư cách là chuyên gia của Liên đoàn các môn võ phương Đông và Việt Nam ở Belarus…”.

Chẳng thể ngờ môn võ thường chỉ lưu truyền sau lũy tre làng vùng sông Lam, sông Mã đã phát triển mạnh ở Nga và các nước châu Âu. 20 năm qua, GS Ngô Xuân Bính đưa môn võ dân tộc  “phủ sóng” tới nhiều quốc gia, trong đó Nhất Nam có 4 liên đoàn võ cấp quốc gia ở Nga, Belarus, Lithuania (Litva), Ukraine và cả một mạng lưới những câu lạc bộ ở nhiều tỉnh thành. Rất nhiều thanh niên châu Âu đến bái GS Ngô Xuân Bính làm sư phụ và khoác lên mình bộ võ phục Nhất Nam...  

(Còn nữa)

Tuy ông  không tiết lộ với tôi, nhưng nghe nói ông có lực lượng học trò riêng: những người làm công tác đặc biệt của chính phủ. Vì thế, Nhất Nam được nhiều nước quan tâm ở cấp Trung ương.

Ở châu Âu, GS.VS Ngô Xuân Bính còn nổi tiếng trên cương vị một thầy thuốc: người đã dùng y học Việt Nam chữa bệnh cho Tổng thống Nga và một số nguyên thủ quốc gia khác…