Kỷ lục xuất khẩu gạo
Phát biểu tại hội thảo, ông Hoàng Trung - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) - cho biết, sản lượng lúa trung bình một năm của Việt Nam đạt 43-45 triệu tấn, tương đương khoảng 26-28 triệu tấn gạo, trong đó khoảng 20 triệu tấn gạo tiêu thụ trong nước, phần còn lại dành cho xuất khẩu.
11 tháng năm nay, Việt Nam đã xuất khẩu 7,8 triệu tấn gạo, thu về 4,4 tỷ USD. Đây là những con số kỷ lục, cao nhất kể từ năm 1989 trở lại đây và dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Theo ông Trung, trong những năm qua, dù diện tích trồng lúa giảm nhưng sản lượng và chất lượng lúa gạo Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế trên thị trường. Gạo Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế công nhận là một trong những loại gạo ngon nhất thế giới, đáp ứng được các điều kiện an toàn thực phẩm.
“Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” - nơi chiếm tới 90% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Với đề án này, chúng tôi xác định mục tiêu hình thành 1 triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam” - Thứ trưởng Hoàng Trung nói.
Những điểm nghẽn
Theo đại diện Bộ NN&PTNT, để phát triển thực chất các chuỗi giá trị lúa gạo của Việt Nam theo hướng trách nhiệm và bền vững, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra.
Cụ thể, tình trạng các mắt xích trong chuỗi giá trị chưa nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của liên kết sản xuất, chưa chuyển đổi tư duy theo hướng thị trường, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, người dân chưa thấy được lợi ích của việc tham gia vào hợp tác xã hay tổ hợp tác...
Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu dẫn tới hiện tượng thời tiết bất thường nghiêm trọng, xâm nhập mặn, nước biển dâng... là điểm nghẽn quan trọng trong sản xuất lúa gạo. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, lúa gạo Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều quốc gia xuất khẩu khác, cộng với hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu ngày càng được nâng cao…
PGS.TS Nguyễn Phú Son - Trường Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ - cho rằng, dù lúa gạo là một trong 3 ngành hàng chủ lực của ngành nông nghiệp (cùng với thủy sản và cây ăn trái), nhưng thực tế, hoạt động của chuỗi giá trị lúa gạo ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng còn tồn tại khá nhiều điểm yếu bên trong và phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường kinh doanh bên ngoài, tạo nên những “điểm nghẽn”.
Theo ông Son, trong chuỗi giá trị lúa gạo hiện nay, mục tiêu liên kết mới chỉ dừng lại ở chỗ đạt được lợi nhuận trong ngắn hạn; hợp đồng chỉ mang tính thời vụ; không có được đầu ra ổn định về sản lượng lúa tiêu thụ và giá bán sản phẩm, dẫn đến thu nhập thấp và không ổn định… Tư duy sản xuất kinh doanh của các tác nhân trong chuỗi chưa được chuyển đổi theo hướng thị trường và bền vững.
Đối với các hộ nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất lúa, theo ông Son, còn mang tư duy sản xuất theo kiểu làm ăn nhỏ lẻ, chạy theo số lượng hơn là chất lượng, lạm dụng sử dụng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến chi phí sản xuất cao, gia tăng ô nhiễm môi trường…
Một điểm nghẽn khác là thiếu sự chia sẻ rủi ro và lợi ích giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo. Điểm nghẽn này thể hiện rõ rệt nhất trong khâu thương thảo ký kết hợp đồng và trong khâu thu mua lúa. Hệ lụy của vấn đề này đã thường xuyên dẫn đến tình trạng bội tín khi các bên tham gia liên kết “bẻ kèo”.
Mỗi khi thị trường tốt lên, phía nông dân có xu hướng bán lúa với lượng ít hơn như trong hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp. Ngược lại, mỗi khi thị trường xấu đi, nông dân có xu hướng bán với lượng lúa nhiều hơn, hoặc doanh nghiệp quay mặt lại với nông dân. Điều này tạo nên tính không bền vững trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
Theo PGS.TS Nguyễn Phú Son, ngành hàng lúa gạo chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu lớn. Đây là một điểm nghẽn lớn làm ảnh hưởng đến khả năng dự báo thị trường, cũng như quản lý tốt ngành hàng để làm tối ưu hóa khoảng cách cung - cầu hàng hóa...