Tôi vẫn nợ nhà thơ Võ Văn Trực

TP - Tôi thật có lỗi. Bây giờ thì nợ trọn đời. Nếu không có Võ Văn Trực, tôi sẽ không theo nghiệp văn chương đến giờ.
Nhà thơ Võ Văn Trực (trái) và nhà văn Ma Văn Kháng

Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, tôi chỉ biết Võ Văn Trực trên báo. Một lần về phép bố tôi bảo: Cạnh phòng bố có nhà thơ tên Võ Văn Trực, làm ở báo Văn Nghệ. Bố có nói với Võ Văn Trực, con làm thơ và là Hội viên thơ của Hội Văn nghệ Thanh Hóa. Bố tôi dặn: Con gọi chú Trực nhé, vì chú cùng trà lứa bố. Tôi ra Hà Nội ngay. Nhà chú cạnh phòng bố tôi, đi chung hành lang ở khu tập thể Trung Tự Hà Nội.

Được bố tôi giới thiệu, ông Trực mời tôi sang chơi. Ông pha trà mời tôi nhưng không vồ vập. Ít nói và trầm lặng là nhận xét đầu tiên của tôi về ông. Ông hỏi thăm tôi làm gì, thơ đăng báo nào rồi. Tôi đọc thơ ông nghe, ông từ chối: Tôi không thích nghe đọc, tôi thú xem trên giấy. Và tôi đưa tờ giấy chép tay thơ tôi cho ông. Ông bảo: Chú phải đi làm. Có thơ nữa thì chép gửi chú xem, nếu hay chú sẽ cho đăng báo. Tôi gửi tiếp bài cho chú Trực qua bưu điện. Như thế có nghĩa là bài tôi đã đưa ông không thích. 

Một tháng sau, tôi ra Hà Nội. Gặp Võ Văn Trực, ông không nói gì, lặng lẽ đưa tôi bản thảo bài thơ Những người kéo rùng, bài tôi viết về Sầm Sơn. Nhìn bản thảo bị gạch gạch xóa xóa bằng bút mực xanh, tôi phát hoảng. Nhưng ông bảo: Thơ có ý hay nhưng dài quá. Cần cô đọng lại. Ông dặn tôi sửa thêm và gửi cho ông. Hai tháng sau, đọc báo Văn nghệ thấy bài tôi đã đăng báo, tôi mừng như được tin thi đỗ đại học. Rồi lần lượt, các bài thơ: Ca ba vùng Mỏ, Vợ chồng thợ mỏ, Ngàn Nưa của ta ơi... đã lần lượt đăng báo Văn Nghệ. Đài tiếng nói Việt Nam cũng giới thiệu thơ tôi trên sóng. Bố tôi bảo: Con mua biếu chú Trực một cân chè Thái Nguyên. Mua chè và mang chè từ Thanh Hóa đi Hà Nội là một việc khó và nguy hiểm vì ngày ấy ngăn sông cấm chợ. Nhà tôi trồng đỗ đen, tôi biếu cô chú cân đỗ đen. Bố tôi chê: Biếu đỗ quê lắm. Nhưng rồi hàng chục năm sau, tôi vẫn chưa có chè Thái Nguyên biếu chú.

Một lần, tôi ra Hà Nội, chú gọi đến nhà có việc. Tôi đến thấy nhà thơ Trinh Đường đang ngồi bên bàn. Hai ông bàn với tôi việc tổ chức cho các nhà thơ đi thực tế ở mỏ Cromit Cố Định Thanh Hóa. Tôi giật mình vì đó là việc khó với tôi. Ông giám đốc tôi không thích thơ. Nhưng tôi vẫn nói: để cháu về báo cáo lại giám đốc. Chuyện đi thực tế mà chú Trực giao, tôi không làm được. Gặp tôi, chú vui vẻ nói: Không sao, chú đã đi mỏ Quảng Ninh rồi.

Tập thơ đầu tay Hát lúc trăng lên ra đời, tôi mang lên báo Văn Nghệ tặng chú Trực, chú bắt tay tôi và nói lời chúc mừng. Chỉ mấy phút ngắn ngủi ở báo, chú bảo: Mình bận đi họp, xin lỗi nhé. Cháu nhớ viết nhiều nhưng viết cho hay. Vẫn trầm lặng, ít nói như thế, ông lại nhắc: Bao giờ có dịp đưa chú đi mỏ nhé. Tôi hứa, nhưng khi tôi được điều về mỏ mới làm giám đốc thì chú đã về hưu rồi. Tôi vẫn mắc nợ với người đã có công dìu dắt tôi đến văn chương cái thuở ban đầu.

Ngày cưới em gái út tôi, chú đến thăm bố mẹ tôi và mừng cưới ở Hà Nội. Vui quá, chú chúc mừng tôi đã là Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi hứa sẽ tặng tập thơ mới cho chú qua bưu điện. Chú lại bảo: Hôm nào đưa chú đi Tuyên Quang thăm mỏ. Nhưng rồi chú chuyển nhà và tôi không thể liên hệ với chú được và cũng chưa tặng tập thơ mới cho chú.

Qua anh Nguyễn Trọng Tạo, tôi biết nhà thơ Võ Văn Trực đã về điều trị bệnh ở Trung tâm Chăm sóc sức khỏe người già ở Linh Đàm. Hai vợ chồng tôi bàn nhau đến thăm chú.

Võ Kim Cương, con chú Trực, chỉ tôi rất rõ ràng nhưng rồi tôi vẫn không tin vào mắt mình. Những thân hình gầy guộc trên giường sắt, phủ chăn trắng muốt. Không gian im lặng. Những dây truyền huyết thanh và những chai lọ dốc ngược. Nguyễn Trọng Tạo nói đấy là An dưỡng đường cho người già. Tôi nghĩ, có không khí bệnh viện hơn là An Dưỡng Đường. Lên tầng hai, thấy ông gầy chỉ còn da bọc xương. Hỏi thăm, ông không nói được gì… Chú Trực ơi, chú không nói được hay chú giận cháu lâu không đến thăm khi chú còn nói được?

Tôi thẫn thờ cả người. Tôi điện cho Cương. Cương vừa nói vừa khóc qua điện thoại: Anh Lộc ơi, đến 3 tuần nay em không vào thăm bố em được. Em bị tai nạn xe máy rất nặng, gãy chân. Tự em lao xe xuống đường mà may không xe nào đâm phải. Chắc phải 3-4 tuần nữa em mới vào thăm bố em được. Em không dám nói cho bố em biết vì sợ ông càng suy sụp hơn. Tôi bùi ngùi khi cánh cửa cuối đời một con người sao mà buồn tẻ vậy. Tôi còn biết, cô Oanh vợ chú cũng đã qui tiên đến mấy chục năm rồi. Con gái đầu của chú cũng đã mất từ lâu, sau khi cô Oanh mất...

Nhà thơ Nguyễn Tùng Linh từ Úc xa xôi nhắn tin cho tôi: “Bác Trực đúng như cái tên mình: Thẳng thắn trực tính, không sao hòa hợp được với xã hội bây giờ... Thật buồn và thương bác ấy”.

Tôi đã viết nhiều chân dung các nhà thơ, các văn nghệ sĩ, nhưng chưa hề có một bài về ông. Ngày xưa thì tôi không dám viết vì ngại ông là bề trên. Tôi thật có lỗi. Bây giờ thì nợ trọn đời. Nếu không có Võ Văn Trưc, tôi sẽ không theo nghiệp văn chương đến giờ. Bố tôi dù yêu văn chương nhưng ông lại cấm tôi vào đại học Tổng hợp Hà Nội, vì sau vụ Nhân văn Giai phẩm ông sợ “bút sa gà chết”.

Nhà thơ Võ Văn Trực ơi, người đời sẽ nhớ ông, sẽ còn tốn nhiều giấy mực để viết, để nói về ông. Kho tàng Văn chương Việt Nam vẫn còn một khu riêng về Võ Văn Trực. n

Nhà thơ Võ Văn Trực

Võ Văn Trực có 20 tác phẩm các loại, tiểu thuyết, lý luận phê bình, ký và tản văn nhưng nhiều nhất vẫn là thơ. Những bài thơ ông viết về mẹ, về chị ruột, về vợ, về con... đã làm xao động bao thế hệ. Bao luận văn sau đại học đã viết về ông. Những người Nghệ An đã viết về ông như một niềm tự hào quê hương.