Đêm nằm ở làng Dòng nghe tiếng gà cầm canh thấy vùng quê này thật mến thương gần gụi.
Làng Dòng ngái xa hẻo lánh nhưng nổi danh cái sự học cùng đỗ đạt và cũng có lắm cái lạ.
Có hai chuyện mà tôi cứ áy náy lẫn đau đáu lâu nay bởi chưa có dịp để rành rẽ để tận bờ sát góc được ở cái làng lạ này.
Làng Dòng từng mang danh là “Làng giặc’’ (Village Rebelle). Làng có biệt danh ấy do Pháp gán cho Xuân Lũng. Lại còn có tên khác là làng làm loạn- nơi có cơ sở chi bộ mạnh nhất của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, từng sản sinh những ‘’liệt sĩ năm ba mươi’’ bất tử Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiệp, Bùi Tư Toàn, Nguyễn Chấp Trung... Cũng tại làng Dòng, Xuân Lũng này, lãnh tụ Nguyễn Thái Học và người bạn đời Nguyễn Thị Giang đã chung hưởng tuần trăng mật ngắn ngủi.
Nhạc sĩ tài danh Đặng Hữu Phúc, từng có những tổng phổ trứ danh viết cho giao hưởng từ chất liệu dân ca - chèo là người làng Dòng. NS Đặng Hữu Phúc có ông nội và ông ngoại đều là yếu nhân của tổ chức Quốc dân Đảng. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, cả hai cụ đều bị Pháp bắt. Ông nội bị đày biệt xứ sang Guyane thuộc Pháp tại xứ Nam Mỹ.
Còn ông ngoại bị đày đi Côn Đảo.
Sử nước vẫn nhắc nhớ một sứ thần Bùi Viện là sứ giả Việt đầu tiên sang Hoa Kỳ kết mối bang giao thì trước Bùi Viện có một người Việt Nam đã sang Hoa Kỳ.
Người ấy là người làng Dòng đây!
Trần Trọng Khiêm như nhiều nho sinh có máu mặt ở làng Dòng, anh được học hành cẩn thận và rất sáng dạ. Năm ông 21 tuổi, vợ anh bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Trần Trọng Khiêm trong cơn uất hận đã ra tay giết Chánh tổng báo thù cho vợ, rồi dạt trốn mãi xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trên một tàu buôn ngoại quốc.
Suốt 12 năm, từ 1842 - 1854, Trần Trọng Khiêm đi qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến New Orleans (Hoa Kỳ).
Ở New Orleans, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim mau chóng gia nhập đoàn người đi tìm vàng tận miền Tây Hoa Kỳ.
Miền Tây Hoa Kỳ, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim (thời đó) để mua lương thực và vũ khí. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng.
Do biết nhiều ngoại ngữ, Lê Kim được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hà Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Lê Kim cũng không giấu mọi người khi ông vuột ra rằng, ông có biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt! Nhưng trong lộ trình tìm vàng chả bao giờ phải dùng đến!
Lê Kim và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco.
Vào giữa thế kỷ XIX, San Francisco đang là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp. Sau mấy năm tất tả bươn chải, Lê Kim lại trở về San Francisco. Một cơ may lạ đã khiến Lê Kim trở thành ký giả cho một tờ báo có tiếng, tờ Daily News trong vòng 2 năm.
Nhiều bài báo của ký giả Lê Kim đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco.
Khi Lê Kim mới tới xứ này, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Hoa Kỳ.
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên là Lê Kim. Vì vẫn bị truy nã nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.
Tại đây, ông tục huyền với người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở miền Viễn Tây Hoa Kỳ rồi trở về an cư ở Định Tường.
Gần 10 năm sau, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với thủ lĩnh Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị chỉ huy quân sự giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội.
Năm đó ông vừa tròn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/ Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Tại làng Dòng và huyện Lâm Thao tôi đã giành nhiều thời giờ lang thang cùng hỏi han cặn kẽ. Nhưng ngạc nhiên, sử làng cùng sử huyện đã không có dòng nào về nhân vật Trần Trọng Khiêm cả!
Nhưng nào có hề chi?
Có lẽ cũng đã tàm tạm những cốt yếu cơ bản để dựng nên một chân dung về Trần Trọng Khiêm.
Bởi tài liệu của cây viết Mai Thanh Hải về Trần Trọng Khiêm có xuất xứ và độ tin cậy cao.
Lại nữa những cứ liệu tuy vỡ vạc nhưng cơ bản ấy lại thêm sức củng cố thuyết phục bởi cây bút tài danh trung thực của nhà văn kiêm nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê qua tiểu thuyết lịch sử Con đường thiên lý.
Có thể ở làng Dòng và quê nhà Xuân Lũng, nhân vật chính của chúng ta đã mang một cái tên khác? Có thể vì bị truy nã sau việc giết tên Chánh tổng gây tội ác với người vợ thân yêu, cái tên Trần Trọng Khiêm mới xuất hiện?
Một cứ liệu củng cố rằng nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tìm đến cái làng Dòng chơi nhà một người bạn mà người ấy biết rất rõ gia cảnh Trần Trọng Khiêm!
Bao nhiêu phân vân đã nhường chỗ cho cảm giác bồi hồi.
Có một người Việt đầu tiên trở thành cao bồi miền Viễn Tây Hoa Kỳ.
Có một người Việt đầu tiên là ký giả tờ Daily Evening danh tiếng.
Mà hai người ấy là một.
Rồi hẳn hoi có những người khảo cứu đã tìm tới tờ Daily Evening nguyên gốc và tìm đến những bài báo của Lê Kim (Trần Trọng Khiêm) trong đó có phóng sự về cuộc gặp thủ lĩnh, viên tướng Sutter’
Năm đã xa, có dịp lang thang ở xứ San Francisco của Califonia nơi có đông cộng đồng người Việt, một ý nghĩ ngồ ngộ rằng, có thể mai kia tên một đường phố có đông người Việt cư ngụ, hoặc một đài kỷ niệm nho nhỏ có được sự chuẩn thuận của Hội đồng thành phố Cali mang cái tên Tướng Sutter cùng cái tên người Việt Lê Kim - Trần Trọng Khiêm. Biết đâu?
(Còn nữa)