Nguy cơ thiếu điện ngày càng lớn

TP - “Nguy cơ thiếu hụt điện năng trong những năm tới không chỉ ảnh hưởng đến đời sống dân sinh mà còn kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu không sớm tái cấu trúc lại các nguồn cung cấp điện một cách hợp lý”, PGS-TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cảnh báo tại Hội thảo “Tìm giải pháp phát triển nguồn điện, đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia” do báo Tiền Phong tổ chức tại TPHCM, ngày 28/5.
Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh)Ảnh: Đại Dương

Cung - cầu căng thẳng

Phát biểu khai mạc hội thảo, nhà báo Lê Xuân Sơn, Tổng biên tập báo Tiền Phong, Trưởng Ban tổ chức nói vấn đề An ninh năng lượng đang nổi lên trong những năm gần đây. Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh, vấn đề an ninh năng lượng càng trở nên cấp thiết, nhất là trong bối cảnh các nguồn cung cấp điện năng tuy bước đầu đã đáp ứng đời sống dân sinh và yêu cầu phát triển của nền kinh tế song vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn nếu không có giải pháp hiệu quả giải quyết các thách thức, nhất là bài toán thiếu điện.

 Nhà báo Lê Xuân Sơn, Tổng Biên tập báo Tiền Phong, trưởng BTC hội thảo phát biểu kết luận cuộc hội thảo. Ảnh: Ngô Tùng

“Hội thảo góp phần chỉ ra những khó khăn, bất cập, hạn chế trong việc phát triển nguồn điện để từ đó các cơ quan quản lý nhà nước hoạch định, xây dựng cơ chế chính sách, tìm giải pháp thích hợp phát triển nguồn điện đảm bảo an ninh năng lượng điện quốc gia”, nhà báo Lê Xuân Sơn nhấn mạnh.

Phó Cục trưởng Cục Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) Lê Văn Lực cho biết thủy điện có giá điện thấp nhất trong các loại nguồn điện (khoảng 1.000 đồng/kWh) song Việt Nam đã cơ bản khai thác hết các nguồn thủy điện lớn và vừa, chỉ còn một số ít các dự án thủy điện nhỏ, hiệu quả thấp đang khai thác dần với tổng công suất ước tính khoảng 4.000-5.000 MW. Điện năng sản xuất từ thủy điện đến năm 2030 chỉ còn chiếm khoảng 12,4%.

Về nhiệt điện khí, tổng công suất các nhà máy hiện nay là trên 7.000 MW, sử dụng nguồn khí từ mỏ Nam Côn Sơn, Cửu Long, PM3, Cái Nước… song trữ lượng đã bắt đầu suy giảm. Một số dự án đang chuẩn bị đầu tư sử dụng khí Lô B và mỏ Cá Voi Xanh có giá điện cao, nhiều khả năng chậm tiến độ vì thu xếp vốn khó khăn, thời gian đàm phán kéo dài…

Trong khi đó các dự án điện mặt trời chủ yếu tập trung tại khu vực miền Trung (Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa); Tây Nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk), việc bổ sung quy hoạch dẫn đến quá tải hệ thống truyền tải hiện có, cần phải đầu tư lưới điện 220-500 kV để giải tỏa công suất. Tuy nhiên, điện mặt trời vận hành không ổn định do phụ thuộc thời tiết, cần bổ sung nguồn dự phòng khi dừng hoạt động, chưa kể giá điện mặt trời rất cao (khoảng 2.150 đồng/kWh) và chưa có thiết bị lưu trữ điện.

Theo ông Nguyễn Quốc Minh, Phó trưởng Ban phụ trách Ban Chiến lược phát triển, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nguy cơ thiếu nguồn cung là rất lớn. Với tốc độ tăng trưởng phụ tải hàng năm bình quân trên 10% như hiện nay, mỗi năm hệ thống điện cần được bổ sung tối thiểu trên 6.000 MW công suất đặt. Năm 2018, toàn hệ thống điện mới sản xuất và mua được 212,9 tỷ kWh, trong khi theo Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh thì đến năm 2030 cần sản xuất được 570 tỷ kWh. Năm 2020, hệ thống nguồn cần được bổ sung kịp thời để đảm bảo sản xuất hơn 360 tỷ kWh so với năm 2018.

“Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh trong 5 năm 2018-2022, tổng công suất các nguồn điện dự kiến đưa vào vận hành là 34.864 MW, trong đó nhiệt điện là 26.000 MW nhưng thực tế hiện nay chỉ có 7 dự án nhiệt điện với tổng công suất 7.860 MW đã khởi công xây dựng. Hiện vẫn còn một số dự án nhiệt điện than với công suất trên 18.000 MW đến nay chưa được khởi công xây dựng”, ông Minh cho hay.

Tái cấu trúc các nguồn điện

Theo ông Lê Văn Lực, Việt Nam đang nhập khẩu khoảng 1.000 MW điện từ Trung Quốc (TQ), Lào và tiếp tục tăng cường nhập khẩu điện mới đáp ứng được nhu cầu trong nước. Dự kiến, Việt Nam sẽ mua khoảng 3.000 MW điện vào năm 2025 và 5.000 MW vào năm 2030. Hiện Bộ Công Thương đang trình Thủ tướng Chính phủ khung giá mua điện từ Lào để làm cơ sở đàm phán mua điện nhập khẩu nhưng tiềm năng mua cũng hạn chế và giá mua nhiều khả năng phải tương đương với giá của khu vực.

Ông Lê Văn Lực cho biết, giai đoạn 2020-2030 và những năm tiếp theo, để đảm bảo nguồn cung cấp điện ổn định, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam cần phải phát triển các nguồn nhiệt điện than, nhiệt điện khí, năng lượng tái tạo và nhập khẩu điện với cơ cấu phù hợp nhằm đảm bảo các mục tiêu chủ yếu của Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.

“Cùng với việc phát triển năng lượng tái tạo, nhiệt điện khí thì nhiệt điện than vẫn là giải pháp cơ bản, đảm bảo cung cấp điện với chi phí hợp lý, phù hợp với kinh tế đất nước và thu nhập của người dân”, ông Lực khẳng định.

PGS- TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Nhiệt Việt Nam cho biết, Việt Nam đang ở giai đoạn 2 về phát triển điện năng, nhu cầu điện năng rất cao ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế. Nhiệt điện than vẫn là nguồn phát điện hợp lý nhất, hiệu quả nhất để đáp ứng nhu cầu điện năng rất lớn của đất nước. Nhiệt điện than cũng là loại có công nghệ xử lý môi trường tốt nhất trong các loại nhà máy công nghiệp sử dụng than.

“Trong điều kiện thủy điện đã khai thác triệt để, tới giới hạn, nhiệt điện khí có giá điện đắt đỏ, điện hạt nhân đã ngưng, điện mặt trời, điện gió phụ thuộc vào thời tiết thì cần phải có nguồn điện dự trữ khi tắt nắng, tắt gió. Vì thế, nếu không phát triển nhiệt điện than thì sẽ dẫn tới thiếu điện trầm trọng”, ông Nghĩa cảnh báo.

Chuyên gia này cho rằng, từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần khoảng 4-5 nhà máy nhiệt điện than có sản lượng 1.200 kWh. Trong tương lai, nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ lệ thích hợp trong cơ cấu tổng sản lượng điện.

“Hiện có một số dư luận không đúng về nhiệt điện than như thông tin về người chết yểu do nhiệt điện than; nhiệt điện than thải ra nhiều nguyên tố kim loại nặng; là nguồn gây ung thư cho cộng đồng; làm tăng nồng độ bụi mịn; nước làm mát có nhiệt độ cao > 40oC, hủy hoại hết môi sinh. Nhiều nước tuyên bố đoạn tuyệt với nhiệt điện than, sao Việt Nam vẫn phát triển nhiệt điện than? Đây đều là những thông tin một chiều, chưa được kiểm chứng và không chính xác. Hiện nhiều nước công nghiệp phát triển vẫn phát triển nhiệt điện than như Đức, Úc, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Ba Lan,Trung Quốc…”, ông Nghĩa nói.

“Không đủ điện mới chết chứ không phải giá điện”
Theo PGS- TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, so mức trung bình thế giới, tiêu thụ năng lượng Việt Nam chỉ bằng khoảng 30-35%, tiêu thụ điện chỉ khoảng 60%. So khu vực, Việt Nam còn thấp hơn nhiều. Năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, bằng 7% của Singapore; 17,6% Malaysia; 36,5% Thái Lan; 42,3% Indonesia; 56,7% Philippines và bằng 87,4% Lào. Trong khi đó tốc độ tăng sử dụng điện quốc gia của Việt Nam trong thập niên vừa qua luôn cao hơn 2-3 lần tốc độ tăng năng suất lao động.