Đây là thông tin được đại diện Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA) cùng đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra tại hội thảo Chính sách xuất nhập khẩu nguyên liệu, vật tư linh kiện và sản phẩm công nghệ thông tin, được Cục Công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam (VEIA) và các bộ, ngành liên quan tổ chức ngày 29/3/2023.
Chia sẻ tại hội thảo, ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó cục trưởng phụ trách Cục Công nghiệp công nghệ thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông) cho biết, trong những năm gần đây tốc độ phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông mỗi năm tăng từ 6-9% và thường vượt tốc độ tăng trưởng GDP cả nước.
Cụ thể, trong năm 2022 doanh thu lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin đạt 148 tỷ USD. Trong đó, doanh thu từ phần mềm chiếm khoảng 6 tỷ USD, phần cứng điện tử là 135 tỷ USD chiếm tỷ trọng 17,8% toàn ngành công nghiệp. Dù có thị trường lớn nhưng hiện tại mảng phần cứng có đến 99% các thiết bị điện tử viễn thông tại Việt Nam đang sử dụng là nhập khẩu từ nước ngoài.
Theo ông Nghĩa, có thực tế phải thừa nhận là hiện xuất khẩu hàng điện tử của Việt Nam được định vị ở phần giá trị gia tăng thấp của chuỗi giá trị toàn cầu. “Điều này có nghĩa, các nhà cung cấp Việt Nam ở cuối “đồ thị nụ cười” của chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp mới chỉ sản xuất linh kiện đầu vào bậc thấp, sản xuất lắp ráp một số sản phẩm đơn giản. Trong khi đó, các khâu quan trọng của chuỗi sản xuất như nghiên cứu phát triển (R&D), thiết kế, logistics, tiếp thị, bán hàng đều thuộc các doanh nghiệp FDI”, ông Nghĩa nói.
Theo lãnh đạo Cục Công nghiệp công nghệ thông tin, các doanh nghiệp điện tử Việt Nam hiện còn rất nhiều hạn chế về quy mô, công nghệ trong khi trong ngành điện, điện tử, những nhà sản xuất FDI chiếm tỷ trọng lớn trong chuỗi cung ứng. Ngay cả câu chuyện đưa sản phẩm ra thị trường trong nước, chủ yếu do các nhãn hiệu nước ngoài nắm giữ. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam có quy mô nhỏ, số lượng ít và năng lực cung ứng không mạnh, chủ yếu tham gia phần sản xuất linh kiện đầu vào bậc thấp hoặc sản xuất lắp ráp một số sản phẩm đơn giản.
“Các nhà sản xuất linh kiện Việt Nam chủ yếu tham gia vào lớp thứ 2, 3 trong chuỗi cung ứng. Còn lớp có giá trị gia tăng lớn nhất của đường cong lại thuộc về các nhà sản xuất, lắp ráp lớn có thương hiệu”, ông Nghĩa cho hay.
Giải bài toán sản xuất, lắp ráp giá trị gia tăng thấp
Theo ông Phạm Hải Phong, Chánh văn phòng Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, những năm qua, xuất khẩu hàng điện tử của Việt Nam đang tăng nhanh và khoảng cách giữa xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng tăng, trong đó điện thoại thông minh đang chiếm tới 65% kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử. Tuy nhiên, kết quả xuất khẩu phần cứng điện tử của các doanh nghiệp lại phụ thuộc phần lớn vào các doanh nghiệp FDI. Còn với doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam, khả năng sản xuất, xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu lĩnh vực này.
Chia sẻ tại hội thảo, bà Đỗ Thúy Hương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho biết, công nghiệp điện tử Việt Nam là ngành có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu trong các ngành chế biến chế tạo của Việt Nam hơn 10 năm qua. Hiện Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai thị trường lớn trong kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ ngành công nghiệp điện tử Việt Nam.
Số liệu thống kê cho thấy, trong năm 2021 cả nước xuất siêu 4 tỷ USD, ngành điện tử xuất siêu 11,5 tỷ USD. Sang năm 2022, khi cả nước xuất siêu 11,2 tỷ USD thì ngành điện tử xuất siêu 11,246 tỷ USD. Dù có kim ngạch rất lớn nhưng trong quá trình thực hiện xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn thách thức do vướng các quy định hiện hành. Các doanh nghiệp cũng gặp nhiều thách thức đồng thời chịu sự cạnh tranh cao từ chính các doanh nghiệp FDI.
Theo lãnh đạo VASI, những con số trên cho thấy ngành điện tử có vai trò đóng góp rất lớn vào việc cân bằng ngoại hối và cán cân thương mại cho cả nước.
Theo bà Hương, dù được đánh giá là ngành công nghiệp có nhiều điểm sáng tích cực trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đóng vai trò lớn trong xuất khẩu, song thực tế cho thấy ngành công nghiệp điện tử Việt Nam vẫn đang dừng ở giai đoạn đầu trong chuỗi sản xuất sản phẩm điện tử. Hiện doanh thu và giá trị sản xuất, xuất khẩu trong ngành được nắm giữ chủ yếu bởi các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp trong nước chỉ tập trung vào lắp ráp và thực hiện những dịch vụ thương mại.
“Doanh nghiệp nội địa chịu sự cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp FDI khi doanh nghiệp FDI được hưởng nhiều ưu đãi, kê khai là doanh nghiệp chế xuất, không phải chịu thuế xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp FDI trong chuỗi được doanh nghiệp đầu chuỗi kéo về Việt Nam từ sớm nên giành lợi thế về các đơn hàng”, bà Hương cho hay.
Điểm đặc thù và cũng là điểm yếu của ngành công nghiệp điện tử, chế biến chế tạo Việt Nam hiện nay, được lãnh đạo VASI chỉ rõ chính là việc thâm dụng lao động lớn. Các doanh nghiệp Việt chủ yếu tập trung vào khâu hạ nguồn, chủ yếu là tham gia lắp ráp và thâm dụng lao động. “Cấu trúc và mô hình hoạt động của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang ngược hẳn với ngành công nghiệp điện tử ở các nước khác trên thế giới, tập trung vốn và công nghệ”, bà Hương cho hay.
Theo bà Hương, vấn đề đáng quan tâm nữa chính là tỷ lệ nội địa hóa ngành điện tử hiện còn rất thấp, chỉ khoảng 5%-10%. Hiện hầu hết các sản phẩm trên thị trường điện tử đều là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp bằng các linh kiện nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong nước chỉ mới tham gia khâu hoàn thiện các sản phẩm bao bì, sách hướng dẫn, linh kiện nhựa mà chưa làm được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Để nâng cao giá trị trong chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải tập trung giải nhiều bài toán khó liên quan đến nguồn nhân lực chất lượng cao, năng lực về công nghệ cũng như xây dựng quy trình sản xuất bài bản, tuân thủ các quy định của bên mua, những tiêu chuẩn quốc tế về lao động và môi trường.