Theo cựu chiến binh Mông Chí Đệ, vào năm 1948, Trần Đăng Ninh thường gọi ông là “ông Đỗ” chuyển đến ở cùng gia đình. Bố ông là Mông Chí Bằng dành cả đồi Pụ Miếu, cùng Lường Văn Lược, mấy người dân dựng nhà, lán cho Ban KTT.Ư.
Con gái ông Ninh tên là Hạnh, cùng trông em ở nhà sàn, vẫn qua lại chơi với nhau. Vào giờ nghỉ buổi chiều, ông Ninh hay câu ếch ở bờ ao và các đầm lầy.
Trần Đăng Ninh (tứcNguyễn Tuấn Đáng), sinh năm 1910 ở Quảng Nguyên, Quảng Phú, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Ông được kết nạp Đảng năm 1936. Tháng 9/1940, ông lãnh đạo khởi nghĩa Bắc Sơn và là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành T.Ư Đảng tháng 5/1941.
Tháng 7/1941, ông là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Ngày 21/11/1941, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở Hỏa Lò, đi đày ở Sơn La, cùng Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiểu. Ông vượt thoát ngục Sơn La vào năm 1943…
Ngày 15/5/1945, tại lễ thành lập Việt Nam Giải phóng quân ở làng Quặng, xã Định Biên, Định Hóa, ông được cử làm chính trị viên, trong khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng.
Tháng 9/1946, Trần Đăng Ninh được Trung ương giao nhiệm vụ cùng Nguyễn Lương Bằng chuẩn bị căn cứ địa và cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phụ trách “Công tác đội” chuẩn bị An toàn khu (ATK).
Đảng, Chính phủ đã chọn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) xây dựng ATK.
Khi bùng nổ toàn quốc kháng chiến, Định Hóa trở thành đại bản doanh của Trung ương Đảng, Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh là Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ…
Ông Hà Xuân Mỹ (Hà Minh Quốc), nguyên bí thư Đảng ủy khối kinh tế Trung ương, kể lại: Tôi làm ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị lúc 24 tuổi, cuối tháng 7/1947 ra học lớp chính trị Tô Hiệu ở ATK Định Hóa.
Tháng 10/1947, quân Pháp đánh lên căn cứ địa Việt Bắc, tôi cùng Lê Khánh, Đặng Việt Lâm được anh Lê Đức Thọ giữ lại làm công tác kiểm tra.
Ngày 16/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết nghị thành lập Ban KTT.Ư do Tổng Bí thư Trường Chinh ký, lúc đầu có ba đồng chí: Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng. Nguyễn Thanh Bình, Ủy viên Thường vụ Khu ủy (sau là Ủy viên Bộ Chính trị, thường trực Ban Bí thư, mất 2008) và Hà Xuân Mỹ.
Ông Trần Đăng Ninh được cử làm Trưởng ban KTT.Ư chuyên trách đầu tiên của Đảng. Các phái viên kiểm tra, lúc đông nhất 23 người được điều động từ các Ban thường vụ Tỉnh ủy từ Liên khu V trở ra: Lê Thanh, Đặng Việt Lâm, Hoàng Phú, Mai Công Thiệp, Trần Tấn,…
Vào mùa đông độ tháng 10, tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm, làm việc, Bác hỏi: Chú Ninh là Trưởng ban thì ai là Phó? Rồi Người hỏi thăm sức khỏe, đời sống của cán bộ và công việc của Ban…
Trụ sở ngày đầu thành lập của Ban KTT.Ư là “nhà dài” độ 20m trên đồi Pụ Miếu, cột gỗ, vách vầu, lợp lá cọ, bàn ghế, giát nằm bằng cây mai, ngăn thành từng gian rộng độ 3m, cứ 2-3 người một gian, phía ngoài làm việc, trong ngủ nghỉ.
Ban thực hiện nhiệm vụ theo phương thức Phái viên, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, hoặc Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó. Vì chưa có cơ quan thanh tra chuyên trách, nên Trần Đăng Ninh kiêm Phó Tổng thanh tra Chính phủ.
Ông có công xây dựng Ban KTT.Ư về tổ chức và nề nếp công tác, giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, kiểm tra, thanh tra về mặt tư tưởng, quan điểm và phương pháp kiểm tra.
Ông Lê Ánh, nguyên phát ngôn viên của Chính phủ (1948 - 1954), cho biết: Trong kháng chiến chống Pháp có hai đặc phái viên Chính phủ là Trần Đăng Ninh và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch.
Ông Trần Đăng Ninh tham gia giải quyết nhiều vụ, việc phức tạp: kiểm tra nội bộ cơ quan “Hoa Kiều vụ”, vụ án gián điệp H122 ở Liên khu Việt Bắc; vụ “Hóa chất miền Nam” ở Liên khu V; thuyết phục giám mục Lê Hữu Từ ở Bùi Chu, Phát Diệm…
Trần Đăng Ninh cùng Tô Quang Đẩu đi ngựa lên Cổng Trời, Đồng Văn bị sa vào trận đồ của phỉ khiến Tô Quang Đẩu gãy hết răng cửa, vẫn quyết vào dinh thự đá, thuyết phục “Vua Mèo” Vương Chí Sình ủng hộ Chính phủ kháng chiến, rồi đi Sơn La, Hòa Bình hàng tháng trời.
Ông Vũ Thơ, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình, còn in đậm trong ký ức về anh Trần Đăng Ninh “giàu lòng thương dân và kỷ luật nghiêm khắc”. Một lần, ông được báo cáo ông C., Phó Chủ tịch huyện Lương Sơn (Hòa Bình)… đánh dân.
Ông Thơ đang cử cán bộ xem xét thì ông Trần Đăng Ninh từ ATK Việt Bắc về kiểm tra Hòa Bình, ghé qua Lương Sơn nghe được chuyện. Ông tìm gặp người dân bị đánh, hỏi han đồng bào xung quanh, yêu cầu Huyện ủy báo cáo, rồi cho gọi ông Phó Chủ tịch hỏi đầu đuôi, lý do tại sao đánh người?
Ông phân tích cho C. thấy rõ mình là cán bộ lãnh đạo nhân dân, khi thấy dân làm không đúng phải phân tích rõ phải, trái, giáo dục họ tự giác sửa đổi, không thể cư xử như bọn quan lại ngày xưa là trái pháp luật Nhà nước.
Ông Phó Chủ tịch nhận rõ lỗi lầm, tự đề xuất kỷ luật. Về dự hội nghị Tỉnh ủy mở rộng nghe báo cáo tình hình các mặt công tác… không thấy ai đề cập việc ông Phó Chủ tịch đánh dân, dù Bí thư Huyện ủy Lương Sơn cũng có mặt, Ông Ninh cho đó là điều đáng tiếc.
Ông Ninh phân tích thêm: Chúng ta cần có tình cảm thương yêu đồng chí, nhưng kỷ luật của Đảng phải giữ nghiêm, mới có tác dụng giáo dục đảng viên, quần chúng… Tỉnh ủy đề nghị cách chức ông Phó Chủ tịch huyện, chuyển công tác khác.
Ông Ninh trả lời: “Nếu chuyển công tác nhân dân sẽ cho là ta bao che cho nhau… Không chỉ cách chức mà còn phải truy tố công khai trước pháp luật”.
Một số cán bộ Tỉnh ủy phát biểu: Ông Phó Chủ tịch huyện hoạt động từ thời kỳ bí mật, mới sai phạm lần đầu nên xin thi hành nhẹ hơn. Ông Ninh nói: Bác Hồ đã dạy, cán bộ là “công bộc của dân”. Từ thời bí mật nếu không được dân giúp đỡ sao cách mạng thắng lợi. Chức vụ càng cao, càng phải gương mẫu chấp hành kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, chứ không cần những “quan cách mạng”, quan liêu, hống hách với dân.
Ông Ninh thuyết phục được mọi người, các tỉnh ủy viên biểu quyết nhất trí đề xuất, UBHC tỉnh ra quyết định cách chức ông Phó Chủ tịch huyện, đưa ra tòa án truy tố xét xử.
Ban KTT.Ư cùng Bảo vệ quân đội điều tra, xác minh đơn thư tố cáo về vụ đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục quân nhu tham ô, tham nhũng, hủ hóa… y bị Tòa án quân sự kết án tử hình, xử bắn ở sân vận động Thái Nguyên.
Vụ này đã tạo được lòng tin trong quân đội, chính quyền và nhân dân. Năm 1950, ông Ninh sang làm Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp mới thành lập.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Liên khu IV Hồ Tùng Mậu ra làm Tổng thanh tra Chính phủ, ở đồi Pụ Miếu cùng Ban KTT.Ư.
Cụ Hồ Tùng Mậu (tên thật là Hồ Bá Cự), sinh ngày 15/6/1896, thân phụ là Hồ Bá Kiện chí sĩ tham gia phong trào Văn Thân, bị thực dân Pháp bắt giam và hy sinh ở ngục Lao Bảo, quê làng Quỳnh Đôi, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, Cụ cùng Lê Hồng Sơn tham gia tổ chức Tâm Tâm Xã (1923), vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1925), tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) tại Cửu Long, Hương Cảng, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn làm tổ chức và phục vụ Hội nghị. Ngày 6/6/1931, khi Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng cấu kết với thực dân Pháp bắt giữ, Hồ Tùng Mậu cùng Trương Văn Lĩnh liên hệ với Hội Quốc tế Cứu tế đỏ, can thiệp và nhờ luật sư Lô-giơ-bai bào chữa cứu thoát, vì vậy Hồ Tùng Mậu bị bắt tại Thượng Hải (26/6/1931), bị kết án tù chung thân, trải qua một loạt các nhà lao Vinh, Lao Bảo, Kon Tum… Tháng 3/1943 Hồ Tùng Mậu vượt ngục ở Trà Khê, hoạt động ở Trung Bộ.
Theo Nghị quyết Hội nghị BCH T.Ư Đảng lần thứ nhất (khóa II), tháng 3/1951 Ban KTT.Ư “gồm ba ủy viên Trung ương và có một số cán bộ giúp việc. Trách nhiệm và quyền hạn của Ban KTT.Ư theo như điều lệ đã định.
Đối với các việc đặc biệt, Trung ương có thể ủy quyền đặc biệt”, gồm ba ủy viên Trung ương dự khuyết: Hồ Tùng Mậu, Trưởng ban KTT.Ư (kiêm Tổng thanh tra Chính phủ) cùng hai Phó ban Nguyễn Văn Trân và Nguyễn Chánh.
Ngày 20/9/2008, đoàn cán bộ lão thành đi trồng cây ở đồi Pụ Miếu, chúng tôi được ông Nguyễn Văn Trân, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nay đã 94 tuổi kể lại: “Sau Đại hội II, Ban KTT.Ư từ Phủng Hiển chuyển sang Thác Dẫng ở Sơn Dương, tôi và anh Nguyễn Chánh làm Phó ban, giúp việc cụ Hồ Tùng Mậu. Cơ quan có anh Tô Quang Đẩu, anh Nam, anh Tân, Quang Bụt, Nguyễn Văn Nho, anh Thiếp, anh Nhiên, anh Hoạch, anh Khiết, anh Hà…
Cụ Mậu ở tập thể cùng anh em trồng rau, nuôi gà… Cụ là cán bộ tiền bối, rất được kính trọng đức, tài. Công tác kiểm tra, thanh tra là một cơ quan nhưng vẫn có hai biển, cán bộ cũng chia làm hai, một số làm thanh tra, số làm kiểm tra Đảng nhiều hơn, công việc mới mẻ, bỡ ngỡ, được cụ Mậu chỉ dẫn, giúp đỡ tận tình.
Quán triệt lời dạy của Bác Hồ: Kiểm tra, giám sát, cũng là trị bệnh, cứu người chứ không phải là dìm cho chết, xuống các địa phương phải tìm cách giúp đỡ, tháo gỡ khó khăn.
Tôi dẫn đoàn xuống Khu III, anh Tô Quang Đẩu đi khu Việt Bắc… Cụ Mậu dẫn đoàn đi Khu IV, hy sinh vì bị máy bay Pháp bắn, có anh Nguyễn Văn Nho, ở làng Vạn Phúc biết”. Ông Nho, cán bộ bảo vệ, giúp việc cụ Hồ Tùng Mậu ở ATK Việt Bắc nay đã ngoài 80 tuổi.
Ông Lê Ánh nhớ lại lễ truy điệu cụ Hồ Tùng Mậu, tại hội trường Hội đồng Chính phủ ở Thác Dẫng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban, dự có các đồng chí Phạm Văn Đồng, Phan Mỹ, Bùi Công Trừng… Bác Hồ đọc điếu văn mà không ngăn nổi dòng nước mắt:
“Chú Tùng Mậu ơi
Lòng ta rất đau xót, linh hồn chú biết chăng?
Về tình nghĩa riêng tôi với chú là đồng chí, lại thân thiết hơn anh em ruột (…)
Mất chú, đồng bào mất đi một người lãnh đạo tận trung. Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, đoàn thể mất một người đồng chí trung thành và tôi mất một người anh em chí thiết”.
Trước thềm kỷ niệm 60 năm truyền thống ngành Kiểm tra Đảng (16/10/1948 - 16/10/2008), di tích nơi thành lập Ủy ban KTT.Ư Đảng ở Pụ Miếu, Phủng Hiển được xếp hạng cấp quốc gia. Tại nơi đây, Ủy ban KTT.Ư xây dựng bia di tích.
Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam xây tặng Nhà văn hóa cộng đồng, tri ân bà con vùng chiến khu xưa.
Đồng Khắc Thọ
Trưởng ban Quản lý di tích và danh thắng Thái Nguyên