Húng chanh là một loại rau gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt Nam. Cây này còn có tên gọi khác là rau tần. Húng chanh vị chua the, thơm hăng, tính ấm vào phế, công dụng giải cảm, tiêm đờm, khử độc và các chứng bệnh cảm cúm, lạnh phổi...
Để chữa hen suyễn lấy 12 g lá húng chanh, 10 g lá tía tô, rửa sạch, sắc uống. Khi uống nên kiêng ăn đồ chiên xào, thức uống lạnh, hải sản.
Chữa ho cho trẻ: Húng chanh kết hợp với lá hẹ, mật ong. Cả 3 thứ đem hấp, uống rất sạch miệng lại đỡ ho.
Bị rết, bọ cạp cắn, ong đốt, dùng lá húng chanh rửa sạch, thái nhỏ hoặc nhai kỹ, cho thêm ít muối vào rồi đắp lên vết thương.
Mùi tàu còn gọi là ngò gai, ngò tàu, vị the, tính ấm, mùi thơm hắc, khử thấp nhiệt, thanh uế, mạnh tì vị, kích thích tiêu hoá...
Khi bị đầy hơi, ăn không tiêu dùng 50 g rau mùi tàu cắt dài 4 cm, kết hợp với gừng tươi đập dập. Cho 2 thứ vào siêu đất, đổ chừng 400 ml nước sắc lại còn 200 ml. Chia làm 2 lần uống cách nhau 3 giờ.
Sốt nhẹ: Mùi tàu 30 g, thịt bò tươi 50 g, vài lát gừng tươi. Tất cả thái nhỏ, nấu chín với 600 ml nước. Ăn nóng, khi ăn thêm ít tiêu bột, trùm chăn kín người cho ra mồ hôi.
Rau răm còn gọi là thuỷ liễu, hương lục. Cây có vị cay, tính ấm không độc, dùng để trị đau bụng lạnh, chữa rắn cắn, chàm ghẻ, mụn trĩ, kích thích tiêu hoá, kém ăn, làm dịu tình dục. Dùng tươi, không qua chế biến.
Để trị chứng tiêu hoá kém, mỗi ngày dùng từ 15 đến 20 g thân và lá rau răm tươi, rửa sạch, giã nát hoặc xay nhuyễn, vắt lấy nước cốt uống.
Trị say nắng: Rau răm kết hợp với sâm bố chính tẩm nước gừng 30 g, đinh lăng 16 g, mạch môn 10 g. Tất cả đem sao vàng, sắc với 600 ml nước cô lại 300 ml. Uống hết trong ngày, chia làm 2 lần.
Thì là (hay thìa là) còn gọi là thời la, đông phong. Đây là một vị thuốc rất thông dụng trong Đông y. Hạt thì là vị cay, tính ẩm, không độc, điều hoà món ăn, bổ thận, mạnh tì, tiêu trướng, trị đau bụng và đau răng.
Người bị tiểu rắt (tiểu són): lấy một nắm thì là tẩm với nước muối, sao vàng, tán thành bột. Khi dùng, lấy bánh dày quết với bột thì là ăn. Phương thuốc này rất hiệu nghiệm đối với những người bị tiểu không có chừng mực hay bị đau buốt.
Những người đi rừng lâu ngày bị sốt rét ác tính, sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng. Để trị chứng này, dân gian dùng hạt thì là tươi, giã, vắt lấy nước uống hay phơi khô hạt, tán thành bột, sắc lấy nước uống rất công hiệu.
Tía tô còn gọi là tử tô, xích tô, bạch tô. Toàn cây dùng làm thuốc chữa bệnh. Lá tía tô vị cay, tính ấm, làm ra mồ hôi, tiêu đờm. Quả tác dụng khử đờm, hen suyễn, tê thấp. Hạt chữa táo bón, mộng tinh...
Để trị chứng cảm cúm không ra mồ hôi, ho nặng: Nấu cháo gạo, cho 10 g lá tía to thái chỉ vào, ăn nóng, đắp chăn kín cho ra mồ hôi, bệnh sẽ khỏi. Hoặc dùng từ 15 đến 20 g lá tía tô tươi, giã nát, đun sôi với nước để uống.
Những người ăn hải sản bị dị ứng, mẩn đỏ, dùng một nắm lá tía tô giã hay xay lấy nước uống, bã xát vào chỗ mẩn ngứa. Hoặc có thể kết hợp với sinh khương 8 g, gừng tươi 8 g, cam thảo 4 g đun với 600 ml, cô lại còn 200 ml. Uống lúc nóng, chia thành 3 lần trong ngày.
Chữa táo bón: Dùng 15 g hạt tía tô,15 g hạt hẹ giã nhỏ, trộn với nhau chế thêm 200ml nước, lọc lấy nước cốt để nấu cháo ăn rất tốt. Món này đặc biệt là thích hợp trị chứng táo bón lâu ngày ở các cụ già và người suy yếu.
Rau mùi còn được gọi là ngò ta, hương tuy, vị cay, tính ấm, không độc. Cây thuốc này giúp tiêu thức ăn, trị phong tà, thông đại tiểu tiện, trị các chứng đậu, sởi khó mọc, phá mụn độc.
Người bị kiết lị, dùng một vốc hạt mùi sao vàng, tán nhỏ. Khi dùng, lấy ra 7 đến 8 g pha với nước, ngày uống 2 lần. Nếu lị ra máu thì uống với nước đường, lị đàm thì uống với nước gừng.
Người bị loét niêm mạc lưỡi, dùng rau mùi kết hợp với rau húng chanh. Tất cả ngâm với nước muối pha loãng rồi nhai kỹ, nuốt lấy nước từ từ.