Trong đó một vấn đề mà hẳn ai cũng sẽ phải thêm một lần xem xét lại: giỏi kiến thức có đồng nghĩa với “giỏi”, và nó có phải sự đảm bảo cho thành công trong đường đời? Suy nghĩ này thực ra không phải chỉ đặt ra ở bậc đại học, mà nó theo suốt các bậc phụ huynh và các em học sinh bắt đầu từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
Qua quan sát, tôi nhận thấy rằng rất nhiều phụ huynh, trong khi quan tâm đến “chất lượng giáo dục” hay mong mỏi con mình học giỏi, thậm chí xuất sắc… thì hầu như không hình dung ra được thực sự, con mình cần được học điều gì ở trường, ở nhà và ra ngoài xã hội. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm nay ở lớp con tôi mới ở cấp tiểu học (lớp 3,) các vị phụ huynh đã đặt vấn đề là các cháu phải được học thế này, thế kia để chuẩn bị đủ kiến thức cho… vào lớp 10 và thi đại học. Cụ thể hơn, có vị khác còn đề nghị cô giao thật nhiều bài tập để về nhà các cháu kín thời gian, không có thời gian nghịch lăng nhăng, đồng thời, học nhiều các cháu sẽ giỏi hơn.
Có thể thấy đến nay, cùng với toàn bộ nền giáo dục, chúng ta vẫn tiếp tục hiểu rằng giỏi được đánh giá bằng kiến thức. Chính vì thế mới có những vị phụ huynh đặt vấn đề là cần chuẩn bị kiến thức cho các con từ bé để sau này các cháu có nền tảng vững chắc, và chính tôi mấy năm trước cũng đã hiểu như thế.
Tìm hiểu các nước tiên tiến về giáo dục qua ngay các bài báo, cuốn sách có thể tiếp cận được, chúng ta sẽ không thấy những chuyện kiểu như “Mẹ Do Thái dạy con lớp 5 học tích phân”, mà đa phần là chuyện về nếp sống kỷ luật, ngăn nắp, cách làm việc nhóm, cách thuyết trình tự tin, cách khơi gợi sự sáng tạo trong trẻ… Ngẫm nghĩ thật kỹ, chúng ta sẽ thấy “cái đinh” của vấn đề nằm ở chỗ, những nền giáo dục đó chú trọng giáo dục kỹ năng.
Cũng không nên như vậy là bỏ rơi việc dạy kiến thức, là học sinh không cần kiến thức hoặc không có kiến thức sau quá trình học tập… Có điều là những kiến thức đó là kiến thức sống hay chết, có áp dụng được vào thực tiễn hay không, lại là chuyện khác.
Lâu nay không ít lần chúng ta nghe những thông tin về cử nhân thất nghiệp quá nhiều, và tốt nghiệp đại học xong vẫn “lơ ngơ như bò đội nón,” không biết cách ngay cả viết một CV xin việc chuyên nghiệp, chứ chưa nói đến làm việc. Kiến thức sách vở chưa đánh giá được giỏi hay dở, nhưng chắc chắn không áp dụng được bao nhiêu vào công việc thực tế.
Bởi vì các em được dẫn hướng sai từ nền giáo dục, từ các bậc phụ huynh đều quá đặt nặng kiến thức. Trong khi điều các em cần ngoài kiến thức chính là việc rèn luyện, được giáo dục kỹ năng. Thông qua giáo dục kỹ năng suốt cả quá trình học tập mười hai năm, rồi đại học… các em tự khắc sẽ có kiến thức. Kiến thức nào chưa có, các em cũng sẽ biết nhanh chóng tự bổ sung, tự biết phải tìm kiếm ở đâu.
Tôi có một người bạn đi làm bao giờ cũng được đánh giá là giỏi, nhưng ngẫm kỹ không ai đánh giá kiến thức của anh ấy cả, vì có cơ man những điều anh ấy chưa biết. Nhưng mọi người đánh giá anh ở khả năng tìm kiếm thông tin về điều chưa biết, biết cách lục lọi và suy nghĩ tìm phương án giải quyết vấn đề… và ngay cả những điều đơn giản nhất như khả năng đánh máy bằng 10 ngón thành thục như một nhân viên văn phòng. Hơn hết thảy, đó là khả năng sắp xếp công việc khoa học, không bị chồng chéo của anh.
Quay lại với cô bé “thủ khoa chăn lợn”. Ở góc độ kiến thức, với tấm bằng thủ khoa, em được công nhận là giỏi. Nhưng dường như em chưa được trang bị những kỹ năng vô cùng quan trọng để bước vào đời, mà trước hết là “đánh giá phân tích thị trường đầu vào, đầu ra…” để tìm việc, sau đó là kỹ năng phân tích lợi hại, để đưa ra lựa chọn, biết chọn cái tốt nhất trong hoàn cảnh và hi sinh đi một số thứ khác… Có lẽ do vẫn bám vào lối mòn “phải vào biên chế” nên em rơi vào hoàn cảnh khó khăn, ít ra từ góc độ “học nghề mà không được làm nghề”.
Câu chuyện này khiến tôi nhớ đến cô giáo chủ nhiệm của con tôi ở trường tư. Đã có không ít phụ huynh hoài nghi vì cô còn rất trẻ, mới ra trường chưa bao lâu. Nhưng qua những lần tiếp xúc, chúng tôi đã thay đổi suy nghĩ.
Trong 3 cô giáo mới được tuyển về, cô là người duy nhất được đứng lớp ngay năm đầu tiên, không chỉ do tốt nghiệp loại giỏi, mà còn do tự tin, các kỹ năng sống, kỹ năng xã hội được trang bị đầy đủ và phong phú. Hơn nữa việc dám bỏ lại mong ước "biên chế" từ thời cha mẹ, dám bước chân vào môi trường cạnh tranh của trường dân lập ở Thủ đô xa nhà, cũng đã là một lựa chọn dũng cảm, độc lập với một cô gái trẻ còn đầy bỡ ngỡ. Trong một nền giáo dục còn thiếu hụt quá lớn về đào tạo kỹ năng, hẳn những phẩm chất này chủ yếu do cô tự rèn luyện mà có.
Vậy mới thấy, “thủ khoa chăn lợn” không chỉ là câu chuyện của riêng ai, riêng trường hợp nào, mà là một dịp để mỗi chúng ta nhìn lại nền giáo dục cũng như quan điểm về giáo dục của chính mình.