Từ năm 1976, giáo sư Hưng đã có nguyện vọng về hợp tác với các trường đại học, các nhà khoa học Việt Nam trong việc đào tạo nhân lực bậc cao để phát triển đất nước. Năm 2006, nghỉ hưu, giáo sư Nguyễn Đăng Hưng về sống tại Việt Nam, tham gia giảng dạy và liên kết với các trường đại học ở Tây Âu đào tạo nhiều thạc sỹ, tiến sỹ cho các trường đại học TPHCM, Đà Nẵng, Hà Nội.
Hình như chính ông phó giáo sư BH, người bị mạng xã hội ném đá tới tấp vì chuyện cải tiến (hay cải lùi ?) chữ Quốc ngữ, là duyên cớ để giáo sư Nguyễn Đăng Hưng quyết chí sang Iran.
- Đang yên đang lành, cái chương trình cải tiến chữ Quốc ngữ của ông BH khiến tôi buồn cả tháng trời. - GS Nguyễn Đăng Hưng bộc bạch - Một người làm khoa học tự nhiên như tôi, hà cớ gì phải quá bận lòng với những vấn đề xã hội. Tôi tự nhủ và cố gạt đi. Nhưng không nổi. Tôi nghĩ, chữ quốc ngữ còn có những điều cần cải tiến, như có nên thay PH bằng F, D bằng Z, hoặc có nên đưa F, J, Z, W, vào bảng chữ cái hay không?… Nhưng kiểu làm của ông BH thì không thể được. Chắc chắn có một thế lực nào đó hậu thuẫn cho ông BH, muốn đảo lộn tất cả, muốn xóa bỏ thành quả trăm năm của chữ Quốc ngữ… Nếu cứ nhốt mình trong phòng để bấm iphone cãi nhau với ông BH trên mạng có khi mình phát điên. Tôi nghĩ, thiết thực nhất là chúng ta cần tìm cách nào đó vinh danh tiếng Việt, bảo vệ chữ Quốc ngữ.
Thế rồi trong dịp sang Bỉ nghỉ hè cùng vợ con, tháng 5 năm 2018, giáo sư Hưng gặp lại người bạn cũ, một nhà khoa học Iran. Sau khi được chỉ dẫn, cho những lời khuyên và giới thiệu một vài người cần gặp, giáo sư Hưng bỏ tiền túi mua vé bay sang Teheran.
Chao ôi, đi tìm ngôi mộ cổ của một ông linh mục thuộc tòa thánh Vatican truyền đạo ở xứ sở đạo Hồi, chết cách đây 358 năm, thật quá chuyện mò kim đáy biển. Rất may, như có thế giới tâm linh mách bảo, một người bạn ở thủ đô Teheran đã giới thiệu cho giáo sư Hưng một hướng dẫn viên du lịch thượng thặng, ông Hojat Sadeqzadeh, đang sống cùng gia đình ở Isfahan. Ông Hojat, chỉ thiếu một chút chiều cao, vài ba centimet, chắc chắn sẽ không làm nghề hướng dẫn viên du lịch mà sẽ làm người mẫu, ngôi sao, hái ra tiền.
Nhìn gương mặt tuổi tráng niên mà vẫn đẹp như hình mẫu của nhà điêu khắc Auguste Rodin với bộ râu quai nón xanh rì, sống mũi thẳng, đôi mắt sâu trầm ấm mà cương nghị, khiến giáo sư Hưng nghĩ tới bóng dáng của Chúa Jesus Christ. Và ông hoàn toàn yên tâm. Việc đầu tiên là phải tìm ra ngôi mộ của cha Alexandre de Rhodes. Khác ở Việt Nam, nghĩa địa là thành phố của người chết, có khi nguy nga hoành tráng chẳng kém gì thành phố của người sống, ở Iran, đi cả ngày trời cũng không tìm ra một nghĩa địa. Các nghĩa trang nằm lẩn trong rừng cây, khiêm nhường như những bãi đá phơi trên mặt đất, u tịch và hoang liêu như chính cõi vĩnh hằng. Và ông Hojat người bản địa, thông thuộc thành phố như lòng bàn tay, không khó khăn gì, chỉ nửa giờ sau, đã tìm ra nghĩa trang của người Armenia theo đạo Thiên Chúa ở ngoại ô Isfahan.
Đi qua trường đại học Isfahan chừng mươi phút thì đến khu nghĩa địa Armenia. San sát, ngổn ngang mộ đá nằm dưới bóng thông. Thông trồng dọc đường vào từng khu nghĩa địa, thông mọc thành rừng, chen trong các hàng mộ, trên một không gian rộng chừng vài hecta.
Giống như hầu hết những nghĩa địa của xứ này, mộ chỉ nhô trên mặt đất chừng hai gang tay, như những chiếc quan tài đá, hoặc là những tấm đá, phiến đá, to nhỏ, dài ngắn tùy theo sự giàu nghèo, thứ bậc. Ở khu mộ cổ, thời gian đã làm vị trí các mộ xê lệch, trồi sụt không theo hàng lối, nhiều tảng đá xô chồng lên nhau, bị vùi trong đất, hoặc bị vỡ, bị mòn vẹt hết chữ.
Khi ông Hojat cùng người trông coi nghĩa trang từ nhà quản trang dẫn giáo sư Hưng đi về phía khu mộ cổ, tim ông có lúc tưởng chừng như thắt lại. Ông ngỡ như sắp được gặp một người thân thiết trong dòng tộc của mình.
- Đây, đây là mộ của cha Alexandre de Rhodes mà giáo sư muốn tìm.
Giáo sư Hưng sà xuống, ấp cả hai bàn tay lên khối đá màu xám tro, đã được gió và cát và thời gian mài mòn, kích thước như một chiếc quan tài ở Việt Nam. Ở đó có những dòng chữ, nhưng mờ quá, không thể đọc được.
Người quản trang cùng ông Hojat xách nước tưới lên mộ đá và dùng khăn lau rửa bụi. Nước khô đến đâu, những chữ Latin hiện ra đến đó. “Nơi đây yên nghỉ Linh mục Alexandre de Rhodes… Đã tạ thế tại Isfahan ngày 5 tháng 11 năm 1660”.
Không còn nghi ngờ gì nữa, gần bốn thế kỷ trôi đi, người có công to lớn khai sinh ra chữ Quốc ngữ, vẫn nằm đây. Không thể tả nổi tâm trạng giáo sư Hưng lúc đó. Ông là một cá thể, nhưng dường như là tất cả. Một kế hoạch ngay lập tức được ông phác trong đầu. Ông không thể đến đây như một kẻ hành hương suông, một kẻ tri ân tầm phào, đặt một bó hoa, thắp một nén hương rồi tếch về xứ sở. Ông phải có bổn phận, có nghĩa vụ.
Ngay hôm đó, giáo sư Nguyễn Đăng Hưng bàn với ông Hojat tìm cách gặp các nhà chức trách, từ khu nghĩa trang, đến giáo phận nhà thờ, chính quyền thành phố, thậm chí Bộ Văn hóa quốc gia… để tìm cách được sửa sang lại mộ, đặt bia tưởng niệm cho cha Alexandre de Rhodes. Nếu ở xứ mình, công việc phức tạp và rườm rà đó chắc chắn sẽ phải mất vài tháng trời.
Người ta sẽ đùn đẩy từ phòng này sang ban kia, sẽ cật vấn anh là ai, giấy tờ đâu, có quan hệ gì với người dưới mộ? Tại sao muốn làm việc này? Có ý đồ chính trị gì không? Nhà nước của ông có cho phép ông chưa? Chỉ nghĩ đến mớ chằng chịt ấy đã rã rời, chẳng thiết làm gì. Vậy mà, lại như có tâm linh dẫn dắt, giáo sư Hưng chỉ phải gặp vài ba nơi, như nhà thờ, sở Xây dựng, sở Văn hóa thành phố…, mà chẳng phải quà cáp, phong bì lót tay gì, đến đâu cũng hanh thông.
(Còn nữa)
Người quản trang cùng ông Hojat xách nước tưới lên mộ đá và dùng khăn lau rửa bụi. Nước khô đến đâu, những chữ Latin hiện ra đến đó. “Nơi đây yên nghỉ Linh mục Alexandre de Rhodes… Đã tạ thế tại Isfahan ngày 5 tháng 11 năm 1660”.