Thoạt nghe thật vô lý, vì bất cứ ai cũng biết rằng Everest - ngọn núi cao 8.848m trên “mái nhà thế giới” Himalaya - bị chinh phục trước tiên bởi vận động viên leo núi cự phách người New Zealand Edmund Hillary và Tenzing Norgay - một thổ dân Nepal trong vai người dẫn đường - cách đây đúng 62 năm, vào ngày 29/5/1953.
Những bức ảnh do đích thân E. Hillary chụp về cuộc chinh phục lịch sử này đã được kiểm chứng chi tiết tại trụ sở Hiệp hội Địa lý Hoàng gia Anh ở London, trước khi được công bố rộng rãi trên tờ nhật báo The Times vào giai đoạn giữa thập niên 1950 của thế kỷ XX. Đồng thời các bằng chứng tư liệu cũng cho thấy vùng sườn phía bắc Everest - thuộc phần lãnh thổ Trung Hoa - luôn phủ dày băng tuyết…
Tuy không phản bác lại thành tích của E. Hillary và T. Norgay, nhưng Giáo sư T. Holzel vẫn một mực khẳng định rằng, thực ra “kỳ tích” ấy đã được hoàn tất ngay từ năm 1924 bởi một nhóm thám hiểm người Anh, họ cũng tiến hành chinh phục Everest từ mạn bắc… Sau đây là lời tường trình của học giả T. Holzel: “Gần trưa ngày 8/6/1924, một ngày lặng gió, Phó giáo sư Viện đại học Cambridge George Mallory (1886-1924), được người sinh viên Andrew Irvine (1902-1924) tháp tùng đã khởi hành từ sườn phía bắc hướng lên đỉnh núi. Họ đã ở độ cao khoảng 8.600m so với mực nước biển, 250m còn lại tới đỉnh núi hiển nhiên sẽ được họ chinh phục tối đa là trong vòng 3 giờ sau…
Còn từ độ cao 7.900m bên dưới, một trong những thành viên khác thuộc đoàn thám hiểm là Noel Odell (1890-1987) đang quan sát 2 người bằng ống nhòm. Anh nhìn thấy rõ cái bóng nhỏ nhắn đi trước của Phó giáo sư G. Mallory, kế sau là hình dáng cao lớn của chàng sinh viên A. Irvine… Đột nhiên vào lúc 12 giờ 55 phút, hình dáng của cả 2 nhà leo núi quả cảm đã vĩnh viễn “tan vào mây ngàn, không để lại một dấu vết nào nữa”, như lời thuật lại của N.Odell.
Sự kiện bi đát trên rặng Himalaya lúc ấy đã khiến cả thế giới chấn động. Một buổi truy điệu trọng thể tưởng nhớ G. Mallory và A. Irvine đã được tổ chức tại giáo đường Thánh Pavel nổi tiếng giữa kinh thành London, với sự hiện diện của Vua Anh George Đệ ngũ và Hoàng hậu Mary.
Còn những bức pô ảnh tư liệu về sự kiện tang thương này do Đại úy John Noel thực hiện, đã làm xúc động hàng triệu con tim trên hành tinh. J.Noel cũng chính là một thành viên trong đoàn thám hiểm, đã dùng ống kính tele chuyên dụng chụp các cảnh minh chứng về sự mất tích của Mallory và Irvine: các túi ngủ thám hiểm được N.Odell, J.Noel và 2 người dẫn đường xếp thành hình chữ thập - biểu tượng cho cái chết vĩnh hằng…
Số phận rủi ro của 2 nhà leo núi quả cảm người Anh vào đầu thế kỷ XX đã được Tom Holzel lưu tâm ngay từ khi còn là học sinh. Sau khi đọc một bài báo kèm các bức ảnh tư liệu về câu chuyện thám hiểm bất thành… ông liền dốc sức vào công việc truy tìm và nghiên cứu tất cả các hồ sơ lẫn tàng thư lưu trữ có trong các thư viện, liên quan tới sự chinh phục ngọn núi cao nhất địa cầu, rồi đưa ra giả thuyết mang tính thuyết phục của mình trước công luận.
Theo học giả Tom Holzel, thì trong 250m còn lại dẫn lên đỉnh núi, Phó giáo sư Mallory đã quyết định “chia tay” với người tháp tùng Irvine để tự mình tấn công - chinh phục đỉnh núi hiểm trở. Với tất cả đoàn tùy tùng còn lại cũng vậy, Mallory đã buộc họ phải “trụ” lại tại Trạm nghỉ số 6 - tương ứng với cao độ 8.229m. Đồng thời Tom Holzel cho biết thêm: “Cũng có thể nguyên nhân khiến Mallory phải tạm “giã từ” cậu học trò Irvine vì có sự trục trặc trong bộ máy cung cấp dưỡng khí đeo sau lưng. Rõ ràng là khí oxy đã bị đóng băng hoặc là rò rỉ…”.
Đại úy kiêm nhiếp ảnh gia J. Noel tham gia đoàn thám hiểm Everest của Phó giáo sư G. Mallroy.
Vẫn theo giả thuyết của Giáo sư Tom Holzel, thì G. Mallory quyết chí tận dụng thời gian cố lên đến đỉnh núi vào xế chiều, để kịp xuống núi trở lại Trại số 6 trước lúc trời tối. Nhưng nhà khoa học lão luyện kiêm vận động viên nghiệp dư lại mặc rất “phong phanh” trước thời tiết vô cùng khắc nghiệt quanh vùng đỉnh Everest. G. Mallory chỉ vận có 2 chiếc áo len bên trong áo khoác lông, song song bên dưới là chiếc quần lông lót bông.
Cũng chính cái đêm 8/6/1924 đáng ghi nhớ ấy lại là một buổi tối giá lạnh nhất trong suốt thời gian cuộc thám hiểm. Ví như nhà leo núi Roger Odel ngụ tại Trại số 5 ở độ cao 7.900m chẳng hạn, suốt cả đêm anh trằn trọc không sao ngủ được vì lạnh, cho dù anh đã đắp chồng cả hai chiếc túi ngủ cực dày.
Mặt khác, học giả Tom Holzel cũng thừa nhận: “G. Mallory thừa biết rằng khả năng sống sót của mình chỉ là “một phần ngàn của tia hy vọng”. Hiển nhiên là ông đã bị chết cóng trong cái đêm kinh hoàng ấy giữa đỉnh núi”. Số phận của A. Irvine cũng chẳng khả quan hơn, cho dù anh đã kịp tuột xuống lúc màn đêm giá buốt chưa ập tới, nhưng bất ngờ Irvine gặp phải bão tuyết giữa chừng, khiến bị trượt chân và rơi thẳng xuống dọc theo sườn núi phía bắc.
Khi học giả Tom Holzel cho công bố giả thuyết của mình trên tờ tạp chí chuyên ngành Mountain, ông gặp phải sự phản đối dữ dội từ giới Everest học. Riêng Giáo sư Wolt Answer, tác giả công trình nghiên cứu Everest đồ sộ nhất thì khẳng định rằng: “Cả 2 thầy trò Mallory không rời nhau nửa bước trong việc chinh phục phần còn lại của đỉnh núi, cũng như họ cùng tử nạn bên nhau”.
Phía ủng hộ giả thuyết của Giáo sư Tom Holzel, tiêu biểu là 2 thành viên cùng đoàn với G. Mallory thuở trước: J.Noel và N.Odell. Họ đều lên tiếng quả quyết: “Everest huyền bí không bao giờ có thể hé lộ hết mọi bí mật của mình!”. Nhà leo núi N.Odell nay đã 109 tuổi, đồng thời là vị Giáo sư Địa chất đầu ngành suốt mấy thập niên nay ở Vương quốc Anh, tái khẳng định: “Theo tôi, chí ít một trong 2 thầy trò Mallory đã leo được tới đỉnh Everest!”.
Giả thuyết của học giả Tomas Holzel còn được sự hậu thuẫn từ cựu Tổng thống Mỹ George H. Bush - thân phụ của nguyên Tổng thống George W. Bush, người dạo năm 1975 khi đang là đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc, từng tiến hành thương thảo và được Bắc Kinh cho phép giới thám hiểm Everest có thể chinh phục ngọn núi từ phần phía bắc - ít hiểm trở hơn - thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Chiếc cuốc chim của A. Irvine.
Mục đích kế tiếp giúp củng cố giả thuyết của Giáo sư Tom Holzel là phải cử các toán thám hiểm mới lên Everest, cốt sao tìm được thi thể của 2 thầy trò G. Mallory và A. Irvine. Người ta cho rằng xác của 2 người đã được “ướp băng” ở độ cao trên 8000m, nơi nhiệt độ xung quanh không bao giờ vượt quá mức 0 độ C. Ngoài ra học giả T. Holzel cũng hy vọng là sẽ tìm thấy những dòng nhật ký do chính tay Mallory quả cảm viết, cũng như tìm ra các đồ vật liên quan như chiếc bình dưỡng khí, hoặc một đoạn dây nào đó chẳng hạn…
Trong trường hợp không hiện hữu một mẩu dây nào hết, rõ ràng là 2 thầy trò Mallory đã chia tay nhau - vì không buộc tay vào nhau - ngay sau khi học rời Trại số 6. Còn từ cuốn nhật ký của Phó giáo sư G. Mallory ta sẽ hiểu được vấn đề, rằng vì sao 2 nhà leo núi nghiệp dư lại quyết định chinh phục 250m độ cao còn lại tận gần xế trưa, chứ không phải vào lúc 8 giờ sáng như dự tính? Vật chứng rõ ràng nhất sẽ là cỗ máy ảnh hiệu Kodak mà Phó giáo sư G. Mallory luôn mang bên mình, một trong những bằng chứng khiến giả thuyết về những người đầu tiên chinh phục đỉnh núi cao nhất thế giới của Tom Holzel trở thành hiện thực.
Theo các chuyên gia của Kodak, thì trong điều kiện thời tiết luôn khô lạnh giữa bình độ cao, các tấm phim sẽ vẫn giữ được nét “nguyên bản” - bất chấp thời gian, tương tự như cách bảo quản phim trong môi trường nhiệt độ thấp - không đổi bây giờ vậy. Nhưng điều tiên quyết là phải tiến hành tráng rửa phim ngay tại chỗ - trên độ cao tương ứng; còn với cao độ thấp hơn như tại các trại tạm nghỉ phía dưới chẳng hạn, có thể hình âm bản sẽ không hiện ra do thời gian quá lâu của 9 thập niên qua.
Giáo sư Tom Holzel tràn trề hy vọng là sẽ tìm được các cuộn phim vô giá ấy, vì “sở trường” cố hữu của Mallory - như các thành viên cùng đoàn thám hiểm cho biết - là chụp ảnh, ngay cả khi các ngón tay đang tê cứng vì lạnh, ông vẫn lên phim và nhấn nút chụp liên hồi. Còn phim từ máy ảnh của Irvine có thể cho biết rằng phải chăng G. Mallory đã đi một mình lên đỉnh… Học giả Tom Holzel quyết định đặt làm các thiết bị dò tìm cảm ứng kỹ thuật số tân tiến, giúp phát hiện ra các đồ vật cho dù đang nằm dưới lớp tuyết dày nhiều mét.
Điều đáng nói nữa là đích thân Giáo sư Tom Holzel cũng tham gia vào công việc truy tìm các bằng chứng trên núi cao. Ủng hộ quan điểm của ông là câu chuyện của nhà leo núi cự phách người Nhật Bản Ryoten Hasagawa - người từng chinh phục đỉnh Everest trong năm 1979, cùng với người dẫn đường là Wang Hungbao - một thổ dân người Hoa đã nhiều năm “lăn lộn” với Everest và trực tiếp đặt chân lên đỉnh núi lần đầu tiên vào năm 1975.
W. Hungbao cho biết là trong quá trình “chinh phục” núi cao của mình, anh đã 2 lần gặp phải xác tử thi trên các độ cao tương ứng là 6.508m và 8.100m. Người đầu đã được nhận dạng: đó là Morrirs Wilson, một vận động viên nghiệp dư người Anh ở địa hạt Yorkshire, từng bị thôi thúc bởi ý tưởng tự mình “chiếm lĩnh” Everest và đã bỏ mạng giữa chừng. Thế còn nạn nhân thứ 2 trên độ cao 8.100m là ai?
Theo lời Wang Hungbao thì đó cũng là một người Anh. Khi W. Hungbao chạm tay vào quần áo của nạn nhân, tự dưng nó bục ra… “như bột mì vậy”. Còn R. Hasagawa không thể hỏi thêm W. Hungbao cho kỹ hơn được, bởi vài ngày sau anh đã bỏ mạng vì một cơn tuyết lở. Riêng R. Hasagawa bị gãy 3 cái xương sườn cũng trong vụ tai nạn ấy… Nhưng câu chuyện dang dở của người dẫn đường gạo cội nói trên đã góp phần củng cố thêm giả thuyết của học giả Tom Holzel, vì không xa nơi W. Hungbao phát hiện ra xác nạn nhân vô danh, người ta đã tìm thấy cây cuốc chim nhỏ của chàng sinh viên A. Irvine. Tới năm 1999, các nhà leo núi đã tìm ra thi hài của Phó giáo sư G. Mallory trên độ cao 8.155m thuộc mạn bắc Everest, tuy nhiên chiếc máy ảnh “bất li thân” của ông vẫn vương vất đâu đó dưới các lớp băng sâu…
Riêng vận động viên huyền thoại 71 tuổi người Italia Reinhold Messner, người duy nhất đã chinh phục tất cả các đỉnh núi cao hơn 8000m trên địa cầu, đã lên tiếng nhận định: “Trường hợp George Mallory là một trong những điều bí ẩn nhất của lịch sử đương đại, cần phải được khám phá một cách thuyết phục nhất!”.