Truy đuổi tàu ngầm ở Biển Đông (kỳ III)

David Minton viết: "Ngày 18 tháng 5, Echo-2 đi vào biển "Nam Trung Hoa", tới điểm có vị trí cách bờ biển đảo Luzon khoảng 300 dặm. Chuẩn đô đốc hải quân Liên Xô Alfred Semenovitch Berzin kể tiếp về cuộc truy đuổi...

Truy đuổi tàu ngầm ở Biển Đông (kỳ III)

> Giải mật cuộc truy đuổi tàu ngầm ở Biển Đông (kỳ II)

> Giải mật cuộc đối đầu tàu ngầm ở Biển Đông (kỳ I)

David Minton viết: "Ngày 18 tháng 5, Echo-2 đi vào biển "Nam Trung Hoa", tới điểm có vị trí cách bờ biển đảo Luzon khoảng 300 dặm. Chuẩn đô đốc hải quân Liên Xô Alfred Semenovitch Berzin kể tiếp về cuộc truy đuổi...

 

Ngày 19 tháng 5. Trong ngày thực hiện kiểm tra phương tiện cứu nạn trên toàn tàu ngầm. Phát hiện được vài điều chưa đạt nhưng đã nhanh chóng khắc phục được. Hồi tháng 4, trước khi ra khơi chuyến này, tàu đã được kiểm tra bởi một ủy ban của Bộ Tổng tham mưu Hải quân do chuẩn đô dốc Ivanov dẫn đầu. Họ kiểm tra tình trạng các phương tiện cứu nạn và sự thành thục của các thành viên trong hoạt động khi có sự cố. Không có nhắc nhở đặc biệt nào. Vào cuối cuộc thanh sát, chuẩn đô đốc Ivanov ra tình huống kiểm tra báo động sự cố. Một trong những dữ kiện đầu bài là: "Con tàu mất lái. Biển động cấp 4. Yêu cầu đưa cáp kéo từ tàu cứu hộ sang tàu ngầm."

Tôi gọi lên cầu chỉ huy trưởng ban 2 thiếu tá hải quân Tsimbalenko V.I. và ra lệnh neo cáp vào mũi tàu ngầm. Người ta nạp hỏa tiễn-kéo dây cứu hộ vào súng bắn hỏa tiễn cầm tay (линемёт ракетой), trên hỏa tiễn gắn cáp (cáp kéo). Tôi hướng dẫn cho Tsimbalenko V.I. về biện pháp an toàn và chỉ hướng bắn-bôt tín hiệu. Đạn được bắn đi ....và Tsimbalenko do không để ý chống giật khi bắn nên đã ngã vào rào chắn đài chỉ huy, bị thương vào phần mềm và hơi hoảng. Hỏa tiễn phóng về phía bốt tín hiệu, kéo theo sợi cáp, một đầu gắn trên thân nó, một đầu trên tàu ngầm. Khi hỏa tiễn lao vun vút về phía bốt tín hiệu, người thủy thủ đánh tín hiệu hốt hoảng gọi điện cho trực ban tác chiến sư đoàn: "Hỏa tiễn từ tàu ngầm của Berzin bay ra và đâm vào bốt tín hiệu." Người trực ban tác chiến ban đầu sửng sốt, trong đầu anh ta "tưởng tượng" ra lập tức "hỏa tiễn" - tên lửa P-6 vũ khí cơ bản trên tàu ngầm đề án 675. Rất may là anh ta không tức tốc gọi điện báo trực ban tác chiến hạm đội mà cố gắng tìm hiểu sự việc trước đã.

Sau đó tất cả mọi người còn cười mãi khi nhớ lại khung cảnh sự kiện này. Người ta cười không chỉ vì cái lệnh bắn dây neo do Tsimbalenko chỉ huy, người mà sau đó phải đi thu lại 300m dây cáp neo mà cười vì cái phương pháp bắn hỏa tiễn đặc biệt đã vật ngã anh ta trên vị trí chỉ huy theo điều lệnh.

 

Ngày 20 tháng 5. Chúng tôi chiếm lĩnh khu vực số 1. Lúc 8h30 phút chúng tôi nổi lên đến độ sâu kính tiềm vọng để thực hiện phiên liên lạc và xác định vị trí. Ngay lập tức qua kính tiềm vọng chúng tôi thấy trên đúng hướng tàu chúng tôi, ở khoảng cách 10 kaben (1 kaben quốc tế, hay 1 cable length theo tiếng Anh bằng 1/10 hải lý hay dặm biển-nautical mile) một tàu hậu cần của Hải quân Mỹ đang đi thẳng về phía tàu mình. Chúng tôi hút đầy nước vào các sitec rồi nhanh chóng lặn xuống độ sâu an toàn. Các kỹ thuật viên thủy âm không nghe thấy tàu Mỹ. Tình hình hải văn rất tồi-chúng tôi không nghe được gì. Bởi vậy mọi cuộc nổi lên ở đây đều tiềm ẩn những mối nguy hiểm có thể va chạm với các tàu mặt nước.

David Minton viết: "Suốt 8 ngày, tàu ngầm Echo-2 đi vận tốc nhỏ, tuần tiễu trong một khu vực có hình chữ nhật cách các tàu sân bay của chúng ta đang đi dọc theo bờ biển Việt Nam một khoảng ước 700 dặm và cách xa khu vực giới hạn 200 dặm mà tên lửa (P6-Shaddock) trên Echo-2 có thể vươn tới. Trong thời gian đó, lệnh theo dõi là cố gắng không để mất dấu tàu ngầm Xô viết...

Nếu bây giờ mà các hoạt động quân sự nổ ra, biển Nhật Bản sẽ là cái bẫy đối với Hạm đội Thái Bình Dương, giống như vịnh Phần Lan đối với các loại tàu chiến và tàu ngầm năm 1943. Trong các eo biển: Laperuda, Sangarskii và Triều Tiên có thể nhanh chóng và dễ dàng dựng lên một tuyến chống ngầm và trong thời điểm hiện tại đối thủ tiềm năng của chúng ta sẽ kiểm soát khá chắc sự qua lại của các tàu ngầm của chúng ta.


Ngày 22 tháng 5. Ghi nhận được tín hiệu của đài vô tuyến định vị AN/APS-80 trên máy bay săn ngầm "Orion" của Mỹ, tín hiệu yếu. Chúng tôi lại tạm thời di chuyển tránh máy bay.

Ngày 23 tháng 5. Vào lúc 8h30 phút, tàu nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng để thực hiện phiên liên lạc và xác định vị trí. Tin chính trị:"Ban cán sự Đoàn thanh niên Komsomol hạm đội đã đi qua". Và không thêm một lời nào. Tất nhiên đó là thông tin "cực quý giá" đối với tàu ngầm đang ở biển Đông. Ghi nhận được tín hiệu làm việc của ra đa AN/APS-80 của máy bay săn ngầm "Orion" của Mỹ, tín hiệu yếu. Tạm thời tàu ngầm di chuyển tránh máy bay.

Ngày 24 tháng 5. Lệnh báo cáo vị trí được chuyển đến cho chúng tôi (K-184), K7, K-45. Lúc 12h chúng tôi báo cáo số liệu vị trí (vĩ tuyến và kinh tuyến). Trong tin nhận được có đoạn:"Nixon đang ở Moskva tiến hành các cuộc hội đàm". Ghi nhận tín hiệu của đài vô tuyến định vị AN/APS-20 trên máy bay săn ngầm "Neptune" của Mỹ, tín hiệu yếu. Chúng tôi tạm thời di chuyển tránh máy bay. Tiến hành phân tích hai phát hiện gần đây nhất về tín hiệu của ra đa AN/APS-20, chúng tôi kết luận có lẽ máy bay săn ngầm (Mỹ) đang săn tìm các tàu ngầm trên hành trình.

 Tổng Bí thư Liên Xô Brezhnev hội kiến với Tổng thống Mỹ Nixon

Ngày 25 tháng 5. Đâu đó sau bữa trưa, trưởng ban 5 trung tá hải quân Baiburin M.S. báo cáo rằng bộ phận ХГЦЭН - 601 của mạn trái bị rò rỉ (bộ phận làm lạnh thuộc hệ thống bơm chu trình thứ nhất của lò phản ứng: A.S.Berzin), chúng tôi quyết định tạm ngừng hoạt động thiết bị này, bởi vì độ phóng xạ của hơi và khí dung (xon khí) bắt đầu tăng cao. Chúng tôi cùng Baiburin M.S. nhớ lại chuyến đi tại biển Okhot từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10 năm 1971 trong một chiến dịch săn tìm. Ngày 26 tháng 9 tàu ngầm chúng tôi đã chiếm lĩnh khu vực săn tìm và bắt đầu tìm kiếm tàu ngầm "quân xanh". Ngày 29 tháng 9, vào lúc 12h30, tại độ sâu 80m đã xảy ra sự rò khí phóng xạ trong khu vực có chắn cách ly buồng máy phía mũi tàu của khoang số 6 chứa lò phản ứng.

Khí và khí dung phóng xạ bốc ra ngày càng nhiều trong khu vực có cách ly của buồng máy phía mũi tàu, trên tầng 2 và 3 khoang 6 chỉ số mật độ phóng xạ tập trung cho phép tới hạn (PDK-predelnodopuschimykh konsentratsia) đã tới 20. Ngay lập tức còi và tín hiệu báo động "Phóng xạ nguy hiểm" phát ra và các khoang số 5,6,7 được tuyên bố là khu vực áp dụng chế độ giới nghiêm đặc biệt. Sau 10 phút, tàu ngầm nổi lên và khoang 6 được thông gió. Cũng ngay tức khắc máy bay săn ngầm "Orion" của Hải quân Mỹ xuất hiện và bay lượn quanh tàu ở độ cao 100m. Tàu ngầm lại lặn xuống tạm thời.

Lúc này tình hình hơi và khí dung có phóng xạ lại trở nên càng phức tạp hơn: tại khoang 6 tầng 3 chỉ số PDK đã đến 300, tại khu vực buồng máy mũi tàu-5000 PDK, trên tầng 2-1700 PDK, trong các khoang 5 và 7-đến 40 PDK. Việc giữ các thành viên tiếp tục ở lại các khoang 5,6,7 là không thể. Bởi vậy đã di chuyển họ sang các khoang kế bên và ban chỉ huy tàu phải đánh điện vào bờ báo cáo tình hình phức tạp đang diễn ra. Các khoang 5,6,7 được thông gió vào không trung. Vào quãng 24 giờ ngày 29.9 tình hình rò phóng xạ đã giảm tới mức bình thường tại khoang 5 và 7, còn tại khoang 6 là 1-2 PDK.

Tại các khoang khác trong suốt thời gian trên chỉ số PDK là từ 5-10. Trong các khoang 5,6,7 mức độ nhiễm phóng xạ đạt tới 100 phân rã trong một phút, bắt đầu quá trình khử phóng xạ trong các khoang. Đến 12h ngày 30.9 tình hình phóng xạ trên tàu ngầm đã ổn định: khắp nơi hơi và khí dung phóng xạ đã trở về mức giới hạn bình thường. Trên bờ đã được báo cáo và đã ra lệnh cấm tàu trở về căn cứ trong trạng thái lặn ngầm. Một giờ sau có lệnh cho phép trở về. Sau sự cố trên, một phần thủy thủ đoàn mắc chứng đau đầu, tức ngực, chứng buồn nôn ám ảnh họ cả tháng sau đó. Khi về tới căn cứ cũng chẳng ai khám nghiệm cho chúng tôi.

Ngày 26 tháng 5. Lúc 2h chúng tôi nổi lên đến độ sâu kính tiềm vọng. Ngay lập tức qua kính tiềm vọng chúng tôi thấy một con tàu có độ giãn nước 10.000 tấn đang thẳng hướng tiến tới, khoảng cách 10 kaben, các máy thủy âm không nghe được gì. Tàu ngầm nhanh chóng bơm nước vào hầm lặn nhanh và lặn xuống độ sâu an toàn. Trong phiên liên lạc vô tuyến tiếp theo, chúng tôi nhận được bức điện từ Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương cho lệnh quay về căn cứ.

David Minton viết: "...Các sự kiện trên thế giới bắt đầu diễn biến theo chiều hướng hòa bình. Sau những cuộc thương thuyết lâu dài, tổng thống Nixon đã đến Moskva theo lời mời, tại đó diễn ra cuộc gặp lịch sử với Tổng Bí thư Brezhnev. Trong thời gian cuộc gặp ngày 24 tháng 5, Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger thông báo với Brezhnev rằng Hoa Kỳ biết về việc bố trí của tàu ngầm Xô Viết và rằng sự tồn tại của những tàu ngầm đó gần khu vực đang có chiến sự tại Việt Nam là có tính chất khiêu khích và đặc biệt nguy hiểm. Sau hai ngày của cuộc đối đầu đó, tàu ngầm Xô Viết lên đường về phương bắc."

 

Ngày 27 tháng 5. Ban đêm, một bức điện chuyển tới với lệnh thay đổi chuyến trở về căn cứ, thay vào đó chúng tôi (K-184) cần chiếm lĩnh một khu vực mới tại biển Philippinnes có dạng vòng tròn bán kính 30 dặm, để làm gì thì người ta không thông báo cho chúng tôi biết. K-57 và K-189 cũng nhận các khu vực của mình tại biển Philippinnes. Chúng tôi vượt qua eo Bashi, xác định vị trí bằng phương vị theo mắt thường dựa vào các hòn đảo. Trong phiên liên lạc (nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng), trên hướng tàu của mình, tại góc 1720 bên mạn trái, chúng tôi phát hiện tín hiệu của đài vô tuyến định vị đang hoạt động ở chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-đường chân trời sạch.

Xác định tham số đài ra đa định vị nhưng không thành công. Tôi bắt đầu dùng bàn đạc với mục đích phát hiện sự theo dõi tàu ngầm chúng tôi mỗi khi nổi lên ở chiều sâu kính tiềm vọng, chiều sâu mà con tàu có thể thu nhận được tất cả các tín hiệu tới, ghi nhận được thời tiết, những phát hiện bằng mắt thường, và sự cơ động của mình. Có thể đó là đài ra đa AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm hạt nhân kiểu "Permit" (của Mỹ).

Tàu ngầm nguyên tử đa chức năng Mỹ "Permit".
 

Ngày 28 tháng 5. Đã chiếm lĩnh xong khu vực trách nhiệm tại biển Philippinnes. Có 2 bức điện tới, trong đó cho lệnh chiếm lĩnh khu vực mới là hình tròn bán kính 50 dặm; điện cũng thông báo rằng báo chí Mỹ đang phổ biến tin phát hiện tàu ngầm Xô Viết tại biển Đông. Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, đô đốc Smirnov N.I. yêu cầu chúng tôi phải giữ bí mật, "xỉ vả" K-57 vì tội đã phát bức điện báo cáo chiếm lĩnh xong khu vực trách nhiệm. Bí mật đã bị Bộ Tham mưu (hạm đội) vi phạm ngay từ lúc khởi hành: Hành trình vượt biển bất kỳ ai cũng có thể thấy được; tất cả các con tàu đều được cho phép đi theo một hành trình; khi ở biển Đông" lại ra lệnh cho chúng tôi báo cáo vị trí của mình; không có bất cứ động tác nghi binh nào nhằm che giấu chuyến đi thật của các con tàu.

Trong phiên liên lạc, trên hướng tàu của chúng tôi, tại góc 1700 bên mạn trái, phát hiện tín hiệu của đài vô tuyến định vị đang hoạt động ở chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Việc theo dõi xác định tần số xung và độ dài xung của đài ra đa định vị này không thành công, do đài đó chỉ hoạt động khoảng 3 giây đồng hồ. Trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Có khả năng đó là đài ra đa AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm hạt nhân kiểu "Permit".

David Minton viết: "Sau khi qua eo Bashi, Echo-2 thiết lập khu vực tuần tiễu mới trong biển Philippin về phía nam đảo Okinawa. Trong khu vực đại dương này, các điều kiện thủy âm là xấu nhất mà người ta có thể nghĩ ra. Về đêm, tiếng ồn của thiên nhiên và mưa thường xuyên át hết sonar. Việc cố duy trì tiếp xúc là vô cùng vất vả, đòi hỏi Guardfish phải tiến hành bám sát để theo dõi Echo-2 ở khoảng cách gần hơn nữa. Bộ chỉ huy đã thảo ra một quy tắc rất dài cho việc chuyển giao theo dõi tàu ngầm Echo-2 bởi một tàu ngầm khác của Hoa Kỳ. Tin này được truyền trên mạng thông báo rộng.

Ngày 29 tháng 5. Chiếm lĩnh xong khu vực mới, tốc độ 6 hải lý, nhiệm vụ chiến đấu không được nêu ra, tôi quyết định bắt đầu săn tìm các tàu mặt nước và tàu ngầm của Mỹ và Nhật Bản. Trong phiên liên lạc, trên hướng của mình, ở góc 1750 mạn trái lại phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Xác định tần số và độ dài xung của đài ra đa này không thành công vì đài đó chỉ làm việc gần 5 giây. Trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Có thể đó là đài ra đa AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm hạt nhân kiểu "Permit". Nhưng tất cả đều là giả thiết.

Ngày 30 tháng 5. Trong phiên liên lạc, trên hướng của mình, ở góc 1750 mạn trái lại phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Tôi nghe đề nghị của trợ lý trưởng và các chỉ huy trưởng bộ phận chiến đấu về việc phát hiện ra tàu ngầm nước ngoài và cách "cắt đuôi" nó.

Ngày 31 tháng 5. Tại phiên liên lạc nhận được điện, trong đó giao trách nhiệm cho chúng tôi một khu vực khác, cũng như thông báo rằng có vẻ người Mỹ đã biết về sự tồn tại của tàu ngầm chúng ta ở biển Đông. Các khu vực khác được giao cho K-7, K-45, K-57. Đường tới các khu vực đó phải đi qua các bãi đá ngầm và doi cát cạn. Vì lý do này, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương nhắc các hạm trưởng về biện pháp an toàn khi chỉ huy tàu. Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đang đến gần biển Philippinnes. Tổng thống Nixon đã bay sang Iran, còn Bộ trưởng Quốc phòng của ông ta ra lệnh tạm ngừng triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa "SafeGuard".

Anh hùng Liên bang Xô Viết Smirnov Nikolai Ivanovitch. Từ năm 1969 là Tư lệnh Hạm đội Cờ đỏ Thái Bình Dương, trong những năm 1974-1988 là Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân Xô Viết.
 

Ngày 1 tháng 6. Tại phiên liên lạc, trên hướng của mình, ở góc 1750 mạn trái phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đã tới Guam bổ sung nhiên liệu. Trong vịnh Bắc Bộ-3 tàu sân bay xung kích, phía đông Sài Gòn-1 tàu sân bay xung kích.

Ngày 2 tháng 6. Thực hiện các thao tác cơ động đặc biệt nhằm phát hiện tàu ngầm nước ngoài có thể đang theo dõi chúng tôi. Không phát hiện được tàu ngầm đó. Ban ngày, nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng trong phiên liên lạc, tại phương vị 2800, khoảng cách 40 kaben, phát hiện tàu vận tải độ giãn nước 10.000 tấn. Hệ thống thủy âm trước khi nổi lên không nghe được tàu vận tải. Tình trạng hải văn rất tồi.

Ngày 3 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" tiếp tục đi đến Philippin." Tàu ngầm K-45 nhận được lệnh tiếp tục đi qua eo Bashi vào biển Philippin, nơi tàu phải chiếm lĩnh khu vực mới, có nghĩa là lại băng qua các dải đá ngầm và bãi cạn. Lại chỉ thị của Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương về các biện pháp an toàn khi chỉ huy tàu. Chẳng mấy chốc đã ở suốt một tháng trên biển, đốt nhiên liệu hạt nhân, không hiệu quả và không mục đích, mặc dù đã có thể đặt ra nhiệm vụ săn tìm và theo dõi tàu sân bay xung kích. Một tháng ròng chúng tôi bơi với vận tốc 6 hải lý quanh quẩn trong những vòng tròn bán kính 50 dặm, không nghe và cũng chẳng nhìn thấy gì.

Ngày 4 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đi vào eo biển Luzon."

 

Ngày 5 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: " Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đã đi vào vịnh Subic."
Ngày 6 tháng 6. Từ 29 tháng 5 đến 6 tháng 6 trong các phiên liên lạc tại độ sâu quan sát của kính tiềm vọng đã phát hiện phía đuôi tàu tín hiệu làm việc của ra đa định vị vô tuyến, kiểm tra góc hướng đuôi tàu với tốc độ di chuyển có đặc tính tiếng ồn nhỏ, áp dụng các thao tác cơ động đặc biệt, nhưng cũng không phát hiện được gì. Lúc 12h00 tàu nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng trong phiên liên lạc. Quan sát đường chân trời không phóng đại-sạch, sau đó quan sát với kính phóng đại, tại góc hướng đuôi bên mạn trái tàu-nhìn thấy kính tiềm vọng của một tàu ngầm trong cự ly khoảng 5-6 kaben, kính tiềm vọng nhô lên ước chừng 2 m so với mặt biển.

Tôi cho trợ lý chỉ huy tàu thiếu tá hải quân Saipov L.B. quan sát trên kính tiềm vọng, anh ta cũng khẳng định nhìn thấy tiềm vọng kính (của tàu ngầm nước ngoài). Hệ thống thủy âm không "quan sát" thấy tàu ngầm (nước ngoài). Khi tôi bắt đầu xem lại thì không còn thấy tiềm vọng kính đó nữa. Chúng tôi khẩn cấp đánh điện vào bờ báo cáo tình hình phát hiện ra tàu ngầm Mỹ. Chúng tôi phát hiện phía sau đuôi có tín hiệu làm việc của ra đa định vị vô tuyến trong chế độ đơn công, giả thiết từ trước là tín hiệu của đài AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm lớp "Permit". Chúng tôi lặn xuống độ sâu 80 m, xoay hướng để kiểm tra khu vực hình quạt phía đuôi, vận tốc tàu 4 hải lý, 30 phút sau chúng tôi bắt đầu cắt đuôi tàu ngầm Mỹ khi vừa thay đổi tốc độ và độ sâu bơi, vừa sử dụng các khí tài chủ động chống định vị thủy âm.

David Minton viết: "Bộ chỉ huy đã soạn thảo một thủ tục khá dài để chuyển giao việc theo dõi Echo-2 cho một tàu ngầm Mỹ khác. Thông báo này được truyền đi trên mạng truyền thông rộng rãi.. Lúc đó Guardfish đang ở trên độ sâu kính tiềm vọng, tiếp nhận thông báo khẩn này, Echo-2 đã bất thần nổi lên ở chiều sâu tiềm vọng kính và phát hiện được bằng mắt thường sự có mặt của Guardfish. Các động tác cơ động tiếp sau đó là rất chủ động và diễn ra với vận tốc lớn. Tiếp tục theo dõi một đối thủ đã cảnh giác đề phòng là không thể và tiếp xúc với Echo-2 đã bị mất.

Thời điểm phát hiện ra nhau của các tàu ngầm trên chiều sâu tiềm vọng. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Trên ảnh là các cột khí tài kéo xếp di động của К-184..
 

Ngày 7 tháng 6. Điện đến từ Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương: "Hãy chú ý thận trọng, không theo dõi tàu ngầm Mỹ". Tại góc hướng 1720 mạn trái, chúng tôi phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, giả thiết là tín hiệu của đài AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm lớp "Permit". Tới cuối phiên liên lạc, đài thủy âm phát hiện và quan sát được trong 5 phút ở góc hướng 900 mạn trái tiếng ồn chân vịt của một tàu ngầm. Phát hiện rò rỉ thiết bị ХГЦЭН - 601 của mạn phải, quyết định ngừng hoạt động thiết bị vì trong khoang 6, độ phóng xạ của hơi và xon khí bắt đầu tăng cao. Trong khoang các thành viên nghe được tiếng chân vịt bên mạn trái, (có lẽ của một tàu ngầm).

Ngày 8 tháng 6. Việc cơ động của chúng tôi để cắt đuôi (tránh) tàu ngầm Mỹ không có kết quả. Đài thủy âm vẫn từng lúc một lại nghe được nó. Chúng tôi phát đi 3 bức điện về việc phát hiện ra tàu ngầm Mỹ. Về đêm, trong phiên liên lạc trên đài vô tuyến định vị tìm kiếm "Nakat", tất cả các màn hiện sóng đều lóe sáng (theo kiểu "tia chớp"), có vẻ là có đài định vị vô tuyến nào đó (nguồn gây nhiễu) đang hoạt động rất gần, chỉ cách 1-2 kaben, chúng tôi lặn xuống khẩn cấp, xuống đến độ sâu 60 m, các "tia chớp" vẫn còn trên các màn hình. Trong phiên liên lạc kế tiếp, phát hiện đài vô tuyến định vị AN/BPS-9 đang làm việc, chúng tôi tiếp tục cắt đuôi bằng các biện pháp thay đổi hướng đi, tốc độ, chiều sâu, sử dụng các phương tiện chống định vị thủy âm (ГПД).

Ngày 9 tháng 6, đài thủy âm phát hiện một tàu ngầm trên góc hướng 1500 mạn phải. Tôi quyết định cắt đuôi tàu ngầm Mỹ, để làm điều đó tôi vẽ ra hai vòng hồi chuyển thoải, sau khi đã đặt giữa tàu ngầm của chúng tôi và tàu ngầm Mỹ hai khí tài chủ động chống định vị thủy âm và thoát ra theo phương vị ngược lại với biện pháp thay đổi tốc độ, độ sâu, hướng. Tôi bước vào buồng hoa tiêu, tại đó hoa tiêu phụ thượng úy Konev A.V (ngày nay là phó đô đốc, Phó Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương) nói đùa với tôi: "Đồng chí hạm trưởng, cứ như trong sân diễn rạp xiếc ấy nhỉ, tàu ngầm quân ta giống con ngựa đang phi vòng tròn, còn tàu ngầm Mỹ ở bên đối diện thì chạy theo như anh chàng xà ích khốn khổ."

                     Chuẩn đô đốc hải quân Alfred Semenovitch Berzin

Tôi cười phá lên. Cũng tại đây, theo đường tiếp âm từ khoang thứ 2 sang, tiếng hạm phó chính trị trung tá hải quân Antonov G.Ya.: "Có lẽ chúng ta không cần bắt liên lạc với tàu ngầm Mỹ nữa nhỉ?" Một khi mọi người đã đùa bỡn như vậy thì tôi cũng trả lời một cách đùa cợt: "Đeo máy thở IDA-59 vào" (Máy thở dưỡng khí cách ly-Изолирующий дыхательный аппарат, ИДА). Không khí trong buồng điều khiển trung tâm đang căng thẳng, điều đó thấy rõ trên khuôn mặt mọi người, nhưng nếu họ đã đùa được rồi, thì có nghĩa là mọi việc đang trở về vòng trật tự.

Chúng tôi đã cắt đuôi được tàu ngầm Mỹ, bởi vì từ đó về sau không còn thấy nó nữa. Tại khu vực mất tiếp xúc, những chiếc máy bay chống ngầm "Orion" đang lượn đi lượn lại, chúng vẫn tiến hành tìm kiếm, nhưng chúng tôi đâu còn ở đó nữa. Chúng tôi nhận lệnh tìm kiếm tàu ngầm hạt nhân mang vũ khí đạn đạo (SSBN) trong giải di chuyển 400 dặm, sau đó tiếp tục về căn cứ, dự kiến về đến nơi vào ngày 19. Hành trình trở về cũng y như lúc triển khai chiến dịch.

Ngày 10 tháng 6. Chúng tôi đã chiếm lĩnh điểm cần tới và bắt đầu tìm kiếm SSBN trong giải di chuyển 400 dặm. Định kỳ, chúng tôi làm các động tác cơ động để phát hiện sự theo dõi của tàu ngầm nước ngoài. Không phát hiện thấy sự theo dõi nào.

Ngày 11 tháng 6. Vào ban ngày, lúc nổi lên trong phiên liên lạc, qua kính tiềm vọng chúng tôi phát hiện một con tàu ở phương vị 700, khoảng cách 40 kaben. Đài thủy âm chẳng nghe được gì. Thủy hải văn đối với chúng tôi thật là món khó xơi. Lúc 18h37 phút, đài thủy âm nghe có tiếng chân vịt. Tuân theo biện pháp đề phòng sớm, tàu nổi lên độ sâu tiềm vọng kính. Qua kính tiềm vọng chúng tôi phát hiện con tàu đang rời xa chúng tôi có độ giãn nước chừng 15.000 tấn, chúng tôi ở cách đuôi con tàu đó một khoảng 9 kaben. Như vậy có thể nói rằng, chúng tôi đã xác định được khoảng cách mà trong đó đài thủy âm sẽ phát hiện được các mục tiêu mặt nước trong điều kiện thủy văn hiện tại.

Ngày 12 tháng 6. Lúc 22h00 chúng tôi kết thúc tìm kiếm SSBN (ПЛАРБ) và bắt đầu hành trình về căn cứ. Trong suốt 40 ngày đêm bơi, chẳng có điện tín nào tới nơi mà không có sai lệch. Vậy mà đang là trong thời bình!

Ngày 13 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay trực thăng "Tripoli" đang tiếp tục tới Okinawa". Chúng tôi lại nhanh chóng đi tới đảo Okinawa, và đi vào biển Hoa Đông.

 

Ngày 14 tháng 6. Chúng tôi vẫn đang bơi trong biển Hoa Đông.

Ngày 15 tháng 6. Tàu ngầm nổi lên trong phiên liên lạc ban đêm, không có điện tín nào gửi vào địa chỉ của chúng tôi. Mây cấp 3, biển động cấp 2, tầm nhìn xa 3 dặm. Chúng tôi xác định vị trí theo sao trời và phương pháp "Loran". Các thành viên sửa soạn dọn dẹp trên tàu, chuẩn bị các báo cáo cho chuyến về căn cứ.

Ngày 16 tháng 6. Lúc 2h00, chúng tôi xác định vị trí theo đảo Danjo: phương vị theo mắt thường hướng về ngọn đèn biển, khoảng cách đến đảo xác định nhờ ra đa định vị vô tuyến phát ở chế độ "đơn công". Lúc 6h00, chúng tôi chính xác hóa vị trí (của K-184) một lần nữa rồi đi vào eo biển Triều Tiên trong tư thế bơi ngầm ở độ sâu 40 m. Lúc 12h00, xác định vị trí theo phương pháp "Loran A" (4 đường thẳng cắt nhau tại 1 điểm). Trên đường tiếp cận eo Đối Mã, tôi muốn chính xác hóa vị trí thêm một lần nữa, nhưng đài thủy âm nghe được tại phương vị 1480 tiếng chân vịt bám theo chúng tôi trong vòng 40 phút. Các quân nhân đài thủy âm không thể phân biệt được tiếng ồn đó của loại tàu nào. Sau đó chúng tôi lại lần nữa nổi lên trên chiều sâu tiềm vọng kính để hiệu chỉnh vị trí. Thời tiết: Biển lặng, có khói mù nhẹ; tầm nhìn xa: 20-30 kaben.

Ngày 17 tháng 6. Chúng tôi đi qua đảo Ulyn-Do, phía trước là điểm tàu nổi lên số 1. Chiều sâu biển ở đây là 2000 m và hơn nữa. Thời tiết: sương mù, biển động cấp 2.

Ngày 18 tháng 6. Toàn bộ thành viên trên tàu cạo râu, tắm rửa và thay quân phục mới theo chuyên ngành thật chỉnh tề và sạch sẽ.

Ngày 19 tháng 6. Lại bắn dây neo bến. Các sỹ quan Bộ Tham mưu ra đón chúng tôi cùng với dàn quân nhạc và tư lệnh sư đoàn, chuẩn đô đốc Verenikin I.I. Giao nhiệm vụ mới cho thủy thủ đoàn: chuẩn bị đón Bộ trưởng Quốc phòng Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết, sắp sửa đến thăm tàu ngầm và đến thăm các buồng thủy thủ trên bờ. Còn chúng tôi thì chỉ mơ yên tĩnh và nghỉ ngơi.

David Minton viết: "Tàu ngầm Guardfish thuộc về lớp Permit, anh em sinh đôi với tàu ngầm bất hạnh Thresher (SSN-593). Các tàu ngầm lớp này là loại lần đầu tiên hấp thu tất cả những thay đổi quan trọng nhất trong thiết kế kết cấu tàu ngầm. Đó là sự mở rộng giới hạn chiều sâu làm việc, các phương tiện phát hiện hiệu quả hơn, tiếng ồn giảm thấp, khoang ngư lôi được chuyển từ phía mũi tàu về gần thân tàu hơn.

Bảng số 1: So sánh các đặc tính và thông số của 2 lọai tàu ngầm mà Guardfish và K-184 là đại diện.

 

* - Độ ồn xác định theo kinh nghiệm đi biển của tác giả (chuẩn đô đốc A.S. Berzin), cũng như từ các ấn phẩm đã công bố của Hoa Kỳ và Liên Xô/Nga nơi sinh ra con tàu đề án 675 vốn được gọi vui là "Mụ bò rống".
**- Xác định theo kinh nghiệm đi biển của tác giả (chuẩn đô đốc A.S. Berzin), cụ thể trong chuyến đi này, khoảng cách xa mà tàu ngầm đề án 675 phát hiện được tàu ngầm kiểu Sturgeon khi đi ở vận tốc ít ồn nhất - 24 kaben, còn khoảng cách xa phát hiện được tàu ngầm Guardfish bởi tàu ngầm đề án 675 - 2 kaben.

Khi so sánh các đặc tính kỹ chiến thuật của tàu ngầm đề án 675 và tàu ngầm Guardfish trên bảng 1, có thể thấy Guardfish có ưu thế hơn K-184 ở những điểm sau:
- Vận tốc lớn hơn 5 hải lý;
- Chiều sâu lặn lớn hơn 60 m;
- Độ ồn nhỏ hơn 6 lần;
- Ngư lôi nhiều hơn 6 đạn;
- Có vũ khí "Sabrok" (tên lửa chống tàu ngầm, bắn từ ống phóng ngư lôi 533 mm, tiếng Anh: Underwater missile Subroc), loại mà chúng ta không có;
- Tầm xa mà đài định vị thủy âm phát hiện được lớn hơn hệ thống của chúng ta 6 lần.

Tất cả những điều đó tạo khả năng vô điều kiện để tàu ngầm Guardfish có khả năng theo dõi lâu dài tàu ngầm của chúng ta. Mặc dù vậy, tàu ngầm của chúng ta trên thực tế đã có khả năng phát hiện ra sự theo dõi và thực hành cắt đuôi đeo bám của tàu ngầm Guarsfish. Vậy có thể nói rằng: "Cái khó không bó được cái khôn".

David Milton ngày nay cùng con chó Emma, năm 2009. Ông tâm sự: Nhờ Chúa mà giữa chúng tôi và các chính phủ chúng tôi đã có đủ trí tuệ để không làm nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ Ba.
 

Những điều sau đây đã tạo điều kiện (cho K-184) phát hiện ra sự theo dõi:
1. Tình hình thủy văn kém tại biển Philippinnes đã khiến tàu ngầm Guardfish phải rút ngắn khoảng cách theo dõi để không mất tiếp xúc, đến lượt nó, hành động trên đã cho phép K-184 phát hiện ra tàu ngầm Mỹ;
2. Việc sử dụng đài vô tuyến định vị của Guardfish, mà lần đầu tiên chúng ta phát hiện ra sự làm việc ngắn ngủi của nó ngày 27 tháng 5;
3. Việc K-184 sử dụng những động tác cơ động phi tiêu chuẩn khi phát hiện ra mình bị theo dõi, sự cơ động này cũng cho phép K-184 dứt khỏi sự đeo bám của Guardfish.

Việc cơ động như vậy được David Minton nói trong bài báo của mình là có tính chất gây hấn, diễn ra ở tốc độ lớn, làm cho cá nhân tôi hết sức ngạc nhiên, bởi lẽ trong hoàn cảnh đó, tôi coi hành động của ông ta là hết sức thù địch và đặc biệt nguy hiểm. Cần nói rằng, sự theo dõi giống như vậy trong thời bình có thể dẫn đến va chạm và tai nạn, những ví dụ về việc này là khá nhiều...."

Ngoài ra David Minton đã vi phạm chỉ dẫn của Bộ chỉ huy (của ông ta) về việc tiến hành theo dõi trong bí mật, khi mà sau đó, K-184 đã phát hiện kính tiềm vọng của Guardfish hôm 6 tháng 6 thì David Minton cần phải chấm dứt ngay lập tức sự theo dõi, nhưng ông ta lại không làm điều này, mà còn tiếp tục theo dõi chúng tôi đến tận ngày 9 tháng 6 tại những khoảng cách cực kỳ nguy hiểm, khiến trong một số khoang người ta có thể nghe được tiếng ồn chân vịt của Guardfish. Đeo bám theo dõi trong thời bình - đó mới chính là sự gây hấn.

Một số nhận xét việc chuẩn bị cho chuyến đi:
1. Bộ Tham mưu Hạm đội Thái Bình Dương đã chuẩn bị hành trình theo lối rập khuôn. Một vài sỹ quan chuyên ngành trưởng của sư đoàn đã nhìn thấy hành trình, mà đó chính là sự vi phạm thô bạo nhất và nguyên nhân gây nên sự tiết lộ bí mật có thể xảy ra với những dữ kiện loại này. Sự đảm bảo cho con tàu (hậu cần-kỹ thuật) trước khi ra khơi là không có. Không tiến hành việc tìm kiếm có kiểm soát các tàu ngầm.
2. Việc trở về căn cứ được tiến hành theo hải trình cũ với chiều ngược lại, đây là điều cho phép các lực lượng và phương tiện chống ngầm của Nhật Bản và Hoa Kỳ chẳng cần chú ý gì nhiều cũng có thể dễ dàng đeo bám theo dõi tàu ngầm (chúng ta).
3. Trong giai đoạn chuẩn bị trước khởi hành, tất cả căn cứ trên bờ đều biết về chuyến đi đã sắp đặt trước này của con tàu. Công tác chuẩn bị không hề có công đoạn ngụy trang, không hề có các hành động nghi binh.

Trong thời gian tiếp theo đó, đất nước chúng ta đã chế tạo được những chiếc tàu ngầm mà đặc tính kỹ-chiến thuật của chúng không hề thua kém các tàu ngầm Hoa Kỳ. Ví dụ cho điều này là tàu ngầm nguyên tử mới "Gepard", đã được trang bị cho Hạm đội hải quân của nước Nga."

Kíp thủy thủ của tôi (K-184), năm 1973.
TMT sư đoàn tàu ngầm 26 đại tá hải quân Nikolai Udovitchenko trao cho tôi một chú heo quay chúc mừng chiến dịch đi biển dài ngày và xạ kích tên lửa thành công (heo quay được chia cho toàn bộ kíp thủy thủ).
Tôi trao mâm heo quay cho trung sỹ đội trưởng đội thợ điện để chia cho mọi người.
 

Theo vnmilitaryhistory, flot.com

Theo Đăng lại