Ngày chúng tôi đến, bản mới thành lập gồm người Rục và người Sách từ bản Yên Hợp dạt ra. Những túp lều dựng vội, bé tí và trống hoác tứ bề. Người Rục mới rời hang ra bản. Gần 300 con người xác xơ tàn tạ, đói rét, bệnh tật, như thú hoang bị dồn đến đường cùng.
Người Rục, chọn cho mình bốn điểm dừng chân. Đó là Yên Hợp, Mò O, Ồ Ồ và Phú Minh này. Con đường 15A thời chiến tranh lâu ngày không đi lại bời bời lau lách.
Người Rục ngày đó như khuất lấp trong cái hoang dã, nguyên sơ của rừng núi vùng cao.
Ấy thế mà giờ đây, họ có một cơ ngơi đàng hoàng với điện, nước đầy đủ và ngự ngay mặt tiền đường HCM thênh thênh.
Ông Trần Xuân Lương, trưởng bản ngày nào, giờ vào HĐND xã. Ông cười rổn rảng: “26 hộ của bản với gần 100 nhân khẩu bây giờ không còn đói nữa”. Ông Lương đưa tay chỉ một đám thanh niên đang đứng chơi trước nhà, ngay trên đường HCM và giới thiệu: "Thanh niên của bản đấy". Dăm thanh niên to cao đang đứng cùng với ba chiếc xe gắn máy, áo quần hợp mốt, tóc nhuộm vàng, nâu...
Người Rục đó ư? Thấy chúng tôi ngạc nhiên, ông Lương giải thích, trong bản có chín gia đình sắm được xe máy, 12 gia đình có ti vi... Rồi ông Lương lo lắng: "Đường sá thuận lợi thông thương, cái tốt đến cũng nhanh mà cái xấu đến cũng nhanh".
Thanh niên đua đòi nhau, bỏ học hết cả để đi khai thác và buôn bán lâm sản. Cả bản bây giờ chỉ còn 10 em học tiểu học và hai em đang học THCS...
Sân bay và trận đánh 17 phút
Đổ đèo Đá Đẽo xuôi về hướng Nam nhác thấy một tấm biển chữ xanh bên phải đường ghi "Di tích lịch sử". Băn khoăn không biết đây là di tích lịch sử gì. Đường HCM qua đoạn này bỗng thênh thang, rộng gấp ba, gấp bốn lần toàn tuyến.
Đi thêm chừng ba kilômét nữa lại gặp một bia đá tầm tầm mới xây dựng, chữ nhũ vàng lóa nắng. Bia ghi "Sân bay dã chiến Khe Gát. Nơi đây, từ năm 1969 đến 1972, lực lượng không quân đã sử dụng máy bay phản lực chiến đấu để yểm trợ cho đường HCM. Riêng ngày 19/4/1972 (16 giờ 5 phút), phi đội MIG-17 của Nguyễn Văn Bảy (Bảy B) và Lê Xuân Dị bắn cháy hai tàu khu trục thuộc Hạm đội 7 của Mỹ".
Phía sau tấm bia là một cây đa do Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân trồng chưa lâu. À ra thế. Sân bay dã chiến này trùng lên nền đường HCM, nên nó mới thênh thang đến vậy.
Những người từng đi qua chiến tranh, địa danh sân bay Khe Gát (thuộc xã Phúc Trạch - Bố Trạch -Quảng Bình) vốn không xa lạ, bởi kỳ tích của nó, nhưng không hẳn tường cái sự gian nan, vất vả, đổ máu, hy sinh để có được sân bay này.
Để bảo vệ tuyến đường, Bộ Tổng tư lệnh quyết định xây dựng sân bay Khe Gát nhằm đánh chặn, đẩy lùi máy bay, tàu chiến Mỹ không cho chúng có cơ hội chặt đứt tuyến đường huyết mạchTrường Sơn, tạo điều kiện cho các phương tiện cơ giới vận chuyển khí tài, vật lực vào chiến trường miền Nam.
Phải xây dựng sân bay tuyệt đối an toàn, bí mật trong điều kiện do thám, trinh sát của các loại máy bay và phương tiện tối tân như OV10, SR71, cây nhiệt đới. Nhiệm vụ được giao cho tiểu đoàn 28 công binh (nay là trung đoàn 28 công binh không quân).
Sân bay Khe Gát bắt đầu xây dựng. Những phương tiện thiết bị chuyên dụng như xe lu, xe cẩu, máy húc, xe gạt đều được tháo rời từ Hà Nội, chở từng bộ phận vào hiện trường mới lắp ráp lại. Thời gian thi công được thực hiện từ lúc xẩm tối cho đến ba giờ sáng. Làm đến đâu, thu dọn hiện trường và ngụy trang đến đó.
Bảy tháng trời ròng rã trong gió Lào, nắng bỏng, mưa rét, bão lũ, lương thực, thực phẩm thiếu thốn đủ bề, sân bay Khe Gát dã chiến có đường băng bằng đất nện dài hai kilômét được hoàn thành.
Có được sân bay, nhưng đưa được máy bay vào đây tập kết cũng là một bài toán khó. Cấp trên quyết định thời điểm tốt nhất, an toàn nhất là máy bay hạ cánh trước khi trời xẩm tối để tránh gặp máy bay địch.
Và ngày 18/4/1974, lúc 15 giờ 45 phút, sở chỉ huy Binh chủng và Trung đoàn 923 tổ chức cho hai phi công Lê Hồng Điệp và Từ Để lái hai chiếc MIG-17 từ sân bay Kép về sân bay Gia Lâm sau đó bay vào sân bay Vinh.
Từ Vinh, để bảo đảm bí mật, an toàn sở chỉ huy dẫn đường cho từng chiếc một bay vào Khe Gát. Chiếc thứ nhất hạ cánh, chiếc thứ hai mới được cất cánh. Chỉ một ngày sau, hai chiếc máy bay được kiểm tra và ráp bom sẵn sàng xuất trận...
Lúc 16 giờ, ngày 19/4/1972, trạm ra-đa 403 đối hải đặt ở cửa biển Nhật Lệ phát tín hiệu báo có một tốp tàu chiến thuộc Hạm đội 7 xuất hiện ở phía Đông, cách cửa biển Nhật Lệ 18 km.
Biên đội do Lê Xuân Dị làm biên đội trưởng, vị trí số 1, và trung úy Nguyễn Văn Bảy ( Bảy B) ở vị trí số 2, được lệnh báo động cấp 1, vào vị trí chiến đấu. Năm phút sau, lệnh cất cánh được truyền tới biên đội. Hai chiếc MIG-17 nối đuôi nhau cất cánh.
Mục tiêu đã nằm gọn trong tầm ngắm. Bốn quả bom rời thân máy bay rơi trúng đích. Hai tàu khu trục dính bom bị hỏng, trong đó có tàu HEGBEE gần như bị tê liệt hẳn. Từ khi xuất kích cho đến khi hai máy bay trở về sân bay Khe Gát an toàn chỉ mất đúng 17 phút, được ghi vào lịch sử của binh chủng.
Đây là lần đầu tiên không quân Việt Nam sử dụng máy bay tiêm kích đánh bị thương tàu khu trục hạm của Mỹ trên biển Đông. Trận đánh 17 phút thần kỳ đó đã khiến cho Hạm đội 7 của Mỹ không còn dám nghênh ngang vào gần bờ gây tội ác và buộc phải ngừng bắn phá vào đất liền hàng tuần lễ.
(Còn tiếp)