Nay xin cung cấp để góp phần bổ sung vào hồ sơ xác định chủ quyền của Việt Nam đối với hải đảo này.
Tờ Châu bản đề ngày 15 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13, tức là ngày 3-2-1939. Nó đặc biệt hơn những tờ Châu bản đồng thời khác ở chỗ có đến 2 văn bản khác nhau (một bản bằng tiếng Việt, một bản bằng tiếng Pháp), nhưng liên quan mật thiết với nhau. Chúng tôi tạm gọi đó là văn bản 1 và văn bản 2.
Về hình thức, mỗi văn bản đã được đánh máy trên một mặt của một tờ giấy cỡ 21,5 x 31cm. Đây là một loại giấy tốt, chuyên dùng ở Ngự tiền Văn phòng dưới thời vua Bảo Đại. Bởi vậy, ở góc phía trên bên trái của mỗi tờ, ngoài hai hàng chữ Pháp “Palais Impérial” (Hoàng Cung) và “Cabinet Civil de Sa Majesté” (Ngự tiền Văn phòng), tờ nào cũng có in dòng chữ Hán “Ngự tiền Văn phòng dụng tiên”.
“Tiên” là loại giấy có vẽ hình đẹp làm nền, ngày xưa thường dùng để viết thư, cũng thường gọi là giấy “hoa tiên”.
Trong tập Châu bản gồm khoảng 70 tờ đang được bảo quản tại phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, văn bản 2 tuy được sắp xếp ngay sau văn bản 1 theo thứ tự và được gọi là “đính theo” văn bản 1, nhưng nó cũng chứa đựng một nội dung rất quan trọng đối với vấn đề. Vì nếu thiếu một trong hai thì văn bản này hoặc văn bản kia đều giảm bớt giá trị, cho nên, chúng tôi xin trưng dẫn toàn bộ nội dung của cả hai để độc giả tiện theo dõi trong khi tìm hiểu các sự kiện liên quan với nhau trong đó.
Văn bản 1
Huế, ngày 15 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13
(3-2-1939)
Ngự tiền Văn phòng kính tâu:
Nay Văn phòng chúng tôi có tiếp tờ thơ số 68-sp ngày 2 tháng 2 năm 1939 của Quí Khâm sứ Đại thần thương xin thưởng tứ hạng Long tinh cho M. Fontan, Louis, Garde principal de 1ère classe de la Garde Indigène, vừa tạ thế ở nhà thương Huế; và nhờ chúng tôi tâu lên Hoàng đế ban chuẩn. Phí ngân cấp chỉ và thiệt chất huy chương ấy sẽ do ngân sách Trung kỳ đài thọ.
Vậy chúng tôi xin sao nguyên thơ của Quí Khâm sứ Đại thần, phụng đính theo phiến nầy, kính tâu lên Hoàng đế tài định, hậu chỉ lục tuân.
Nay kính tâu,
Tổng lý Đại thần,
Thần:
[ký tên: Phạm Quỳnh].
Văn bản 2
Văn bản này gửi từ Tòa Khâm sứ Trung kỳ đóng ở bờ nam sông Hương và viết bằng tiếng Pháp, nay xin tạm dịch toàn văn như sau:
Huế, ngày 2-2-1939
Khâm sứ Trung kỳ
Huân chương Bắc đẩu Bội tinh
Kính gửi Ngài Tổng lý Ngự tiền Văn phòng, Huế.
Thưa Ngài,
Tôi kính nhờ Ngài vui lòng tâu lên Đức Kim thượng xin phê chuẩn cho một đề nghị là truy tặng Long tinh của Nam triều cho Ông Louis Fontan là Chánh Cai đội hạng nhất của ngạch lính Khố xanh, vừa tạ thế vào ngày hôm nay tại Nhà thương lớn ở Huế sau khi bị bệnh sốt “typhus” mà ông đã nhiễm phải trong thời gian công tác ở đảo Hoàng Sa.
Trong trường hợp lời đề nghị này được chấp nhận, tôi sẽ rất biết ơn Ngài nếu Ngài gửi thật gấp bằng khen và huy chương ấy cho tôi qua trương mục ngân sách địa phương.
Ký tên: Graffeuil
Sao y nguyên bản
Thương tá Ngự tiền Văn phòng
[Ký tên: Trần Đình Tùng].
Trong hai văn bản này có một số từ cần được giải thích cho rõ nghĩa hơn.
- La Garde Indigène: Ngạch lính Khố xanh. Dưới thời Pháp thuộc, ở nước ta, ngoài đạo quân viễn chinh từ bên Tây qua, lính tráng người Việt tuyển dụng tại chỗ được biên chế vào 1 trong 3 ngạch lính khác nhau. Đó là ngạch lính Khố đỏ ở Bắc kỳ (Milicien à ceinture rouge, tirailleur tonkinois), ngạch lính Khố vàng ở Kinh đô Huế (Milicien à ceinture jaune, garde royal à Hué) và ngạch lính Khố xanh ở mỗi tỉnh (Milicien à ceinture blue, garde provicial). Ngạch lính thứ 3 này được người Pháp gọi là “Garde Indigène”, nghĩa là Lính Bản xứ, chuyên lo bảo vệ an ninh ở từng tỉnh sở tại, tương tự như chức năng của binh chủng “Địa phương quân” sau đó. Tất nhiên, ngạch lính Khố xanh nói chung, mỗi đơn vị lính Khố xanh nói riêng, đều do người Pháp quản lý và chỉ huy.
- Phiến: tờ “phiến” là một loại văn bản ngắn gọn do Nội Các hoặc Ngự tiền Văn phòng đệ trình lên vua để xin ý kiến về một vấn đề nào đó.
- Tài định: xét đoán để quyết định.
- Hậu chỉ lục tuân: (Ngự tiền Văn phòng) đợi nhà vua ban chỉ để sao chép ra mà tuân hành.
- Typhus: một loại bệnh sốt rét rất nguy hiểm do con mò, một loại bọ nhỏ gây ra, cho nên bệnh này được gọi là bệnh sốt mò. Trong Tây y nó còn được gọi là bệnh sốt Rickettsia.
- Iles Paracels: địa danh người Pháp dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa.
- Le Secrétaire Général du Cabinet Impérial: Trong một tờ Châu bản khác bằng tiếng Việt cũng đề ngày 2-2-1939 với nội dung khác, chúng tôi thấy đề chức vụ của ông Trần Đình Tùng là “Cơ Mật sung Ngự tiền Văn phòng Thương tá”. Do đó, chúng tôi dịch nhóm từ “Le Secrétaire Général du Cabinet Impérial” ra một cách chính thức là “Thương tá Ngự tiền Văn phòng” (thay bằng dịch theo nghĩa đen là Tổng thư ký Ngự tiền Văn phòng).
Như vậy, nội dung của hai văn bản trên đây có thể gộp chung lại để diễn đạt một cách đơn giản như sau:
Vào ngày 2-2-1939, Khâm sứ Trung kỳ Graffeuil gửi cho Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh một văn thư đề nghị tâu xin Hoàng đế Bảo Đại truy tặng huy chương Long tinh của Nam triều cho ông Louis Fontan, người vừa qua đời trong ngày hôm ấy. Trước đó, ông này giữ chức vụ Chánh Cai đội hạng nhất của đội lính Khố xanh trú đóng tại đảo Hoàng Sa. Trong thời gian ra công tác tại đây ông đã bị nhiễm phải một loại bệnh sốt rét rất nguy hiểm, rồi ông chết tại Nhà thương lớn ở Huế. Ngay sau khi ông lâm chung, văn thư vừa nêu liền được tống đạt.
Sau khi nhận được văn thư này, Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh giao cho quan chức dưới quyền trực tiếp của mình là Thương tá Trần Đình Tùng trách nhiệm sao y nguyên văn một bản để đính kèm vào tờ phiến đệ trình lên nhà vua. Ngày 3-2-1939, nghĩa là chỉ một hôm sau, tờ phiến và bản sao văn thư ấy được Ngự tiền Văn phòng dâng lên vua Bảo Đại. Trong tờ phiến, ông Tổng lý tuy không nhắc lại nguyên nhân cái chết của ông Fontan (vì đã có nói rõ ở văn thư đính kèm rồi), nhưng đề nghị ban thưởng “tứ hạng Long tinh” cho viên chức người Pháp ấy. Đây là một thái độ coi trọng những người thuộc chính quyền Bảo hộ có công phòng thủ đảo Hoàng Sa của Nam triều. Đọc xong tờ phiến và văn thư đính kèm, vua Bảo Đại chấp nhận ngay những lời đề nghị trong đó. Nhà vua đã “ngự phê” hai chữ “Chuẩn y” và ký tắt hai chữ “BĐ” (Bảo Đại) bằng viết chì màu đỏ.
Vậy là ngay sau đó, mọi việc cứ thế mà thi hành…
Qua tờ Châu bản đề ngày 3-2-1939 chúng ta cần chú ý đến yếu tố “ngoại nhân”. Mặc dù Louis Fontan là người Pháp, nhưng vì đã bất chấp gian khổ và hiểm nguy để giữ gìn đảo Hoàng Sa cho Việt Nam, cho nên Nam triều đã đánh giá cao công lao của ông ngay sau khi ông ta vừa qua đời.
Tờ Châu bản này khẳng định thêm một lần nữa là trước khi diễn ra thế chiến thứ hai và quân đội Nhật tấn công, xâm chiếm vùng châu Á - Thái Bình Dương, đảo Hoàng Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam. Và sau khi thế chiến thứ hai kết thúc thì Hoàng Sa vẫn trở lại thuộc chủ quyền của nước ta như cũ.
P.T.A