Nước giải khát có đường có phải là nguyên nhân chính gây ra thừa cân, béo phì của trẻ em Việt Nam?

Trong những năm gần đây, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với đồ uống có đường đã trở thành một đề tài gây tranh cãi tại Việt Nam. Dự thảo Luật thuế TTĐB của Bộ Tài chính đã nhiều lần đề xuất bổ sung nước ngọt có ga vào đối tượng chịu thuế TTĐB, với mục tiêu giảm tình trạng thừa cân, béo phì (TCBP) ở trẻ em và thanh thiếu niên. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia y tế và kinh tế đã chỉ ra rằng, đề xuất này thiếu cơ sở khoa học và chưa chắc mang lại hiệu quả như mong đợi.

Trước hết, cần nhìn nhận một cách toàn diện về tình trạng TCBP tại Việt Nam. Theo TS.BS Nguyễn Thị Lâm, nguyên viện Phó Viện Dinh Dưỡng Quốc gia, trong 10 năm qua, tỉ lệ TCBP của người Việt Nam tăng gần như gấp đôi, đặc biệt là ở lứa tuổi trẻ em từ 5-19 tuổi. Tuy nhiên, theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ TCBP ở Việt Nam vẫn nằm trong vùng xanh, là một trong 10 nước có tỷ lệ TCBP thấp ở khu vực Đông Nam Á. Điều này cho thấy, tình trạng TCBP tại Việt Nam không nghiêm trọng như một số quốc gia khác và cần có cách tiếp cận khác biệt.

Một vấn đề quan trọng cần lưu ý là nguyên nhân gây ra TCBP. Báo cáo của WHO và tài liệu chuyên môn của Bộ Y tế Việt Nam đều nêu rõ, TCBP bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng đều đến từ sự mất cân bằng giữa năng lượng nạp vào và năng lượng tiêu hao. Các nguyên nhân hàng đầu bao gồm chế độ dinh dưỡng không hợp lý, thiếu hoạt động thể chất và lười vận động. Điều này có nghĩa là, việc tập trung vào một yếu tố duy nhất như đồ uống có đường sẽ không giải quyết được toàn diện vấn đề.

Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa TCBP với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sống và làm việc, thời gian ngủ, v.v. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó, nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%) và các thực phẩm khác (22%). Nước giải khát có đường không phải là nguồn cung cấp đường và calorie duy nhất và cao nhất trong chế độ ăn uống của người Việt. Nếu ngoài các sản phẩm này, người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ đường và calorie với hàm lượng cao hơn từ các sản phẩm khác.

Thực tế, lượng calo cung cấp từ nước giải khát có đường chỉ khoảng 44 kcal/100g, là thấp nhất trong các loại thực phẩm chứa đường. Ngoài ra, cũng cần lưu ý trường hợp trẻ em TCBP nhưng vẫn bị suy dinh dưỡng do sự mất cân đối trong chế độ dinh dưỡng, khiến cơ thể trẻ thừa năng lượng, tăng cân nhưng chủ yếu tăng mỡ, thiếu cơ, thiếu máu, thiếu hụt dưỡng chất thiết yếu, còi xương, dẫn đến suy dinh dưỡng thể ẩn. Nhóm trẻ này thường rất ít vận động.

Một điểm khác cần xem xét là sự khác biệt về tỉ lệ TCBP giữa khu vực thành thị và nông thôn. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỉ lệ TCBP ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%). Tuy nhiên, tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%). Điều này cho thấy, nguyên nhân gây ra TCBP không chỉ nằm ở việc tiêu thụ nước ngọt mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác như hoạt động thể lực.

Nghiên cứu SEANUTS do Viện Dinh dưỡng tham gia thực hiện năm 2011 cũng chỉ ra rằng tỷ lệ trẻ em từ 6-11 tuổi ở khu vực thành thị đạt mức khuyến nghị về hoạt động thể lực chỉ là 32,5% trong khi tỷ lệ này ở nông thôn là 59,9%. Thời gian tĩnh tại trong ngày của lứa tuổi học sinh chủ yếu là dành cho mạng xã hội (95,9%), game, máy tính, điện thoại (76,3%) và làm bài tập máy tính (60,2%).

Thêm vào đó, người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em, có thói quen tiêu dùng nhiều loại sản phẩm có đường khác từ những thực phẩm bao gói sẵn như bánh, kẹo, sữa, đồ uống từ ngũ cốc và rất nhiều các loại đồ uống từ đường phố như trà sữa, cà phê, nước trái cây có thêm đường, v.v. Việc xác định sản phẩm nào, mặt hàng nào trong nhóm các sản phẩm có chứa đường là nguyên nhân chính gây nên TCBP là rất khó. Nếu chỉ áp dụng thuế TTĐB đối với NGK có đường thì nguyên tắc công bằng trong việc ban hành chính sách thuế liệu có được đảm bảo?

TS.BS Nguyễn Thị Lâm cho biết: "Việc đánh thuế TTĐB với các nước giải khát có đường tại một số nước chưa mang lại hiệu quả mong muốn. Người tiêu dùng giảm tiêu thụ lượng nước giải khát có đường nhưng lại tìm kiếm các nước giải khát khác có đường đơn giản hơn. Ví dụ, ở Bang California, Mỹ, sau khi áp dụng thuế TTĐB với NGK có đường, năng lượng đưa vào từ NGK có đường chỉ giảm 6 kcal, nhưng năng lượng từ NGK thông thường khác lại tăng lên 35 kcal một ngày."

Một vấn đề khác cần lưu ý là nhu cầu và thói quen sử dụng đồ uống có đường của người tiêu dùng trong bối cảnh thị trường hiện nay có đa dạng các đồ uống có đường khác được sản xuất công nghiệp hay thủ công, kết hợp "combo" với các món ăn, thay đổi liên tục theo xu hướng phù hợp và thu hút giới trẻ. Việc chỉ đánh thuế NGK có đường được sản xuất công nghiệp liệu có thực sự hiệu quả?

Tiến sỹ Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phân tích, đề xuất của Bộ Tài chính chỉ bổ sung nước giải khát theo TCVN có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB: "Khi mà chúng ta áp dụng và căn cứ vào TCVN như vậy thì đôi khi chúng ta lại vừa thừa và vừa thiếu, chúng ta không đảm bảo được sự công bằng."

Ông Đỗ Thái Vương, Trưởng Tiểu ban Nước giải khát thuộc VBA, chia sẻ: "Việc áp thuế TTĐB vào cho các sản phẩm NGK theo tiêu chuẩn TCVN không đảm bảo được hiệu quả đối với chính sách. Các sản phẩm thực phẩm và đồ uống khác chứa lượng đường nhiều hơn thì lại chưa được tính toán để đưa vào chịu thuế TTĐB, dẫn đến việc phân biệt đối xử và không công bằng trong việc xây dựng các quy định về pháp luật của nhà nước."

Như vậy, có thể thấy rằng, việc áp thuế TTĐB đối với đồ uống có đường chưa chắc mang lại hiệu quả trong việc giảm tình trạng TCBP ở trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam. Các nguyên nhân gây ra TCBP rất phức tạp và đa chiều, cần có những giải pháp toàn diện và khoa học hơn để giải quyết vấn đề này.