Doanh nghiệp dệt may đối mặt áp lực từ quy định mới về kinh tế tuần hoàn

TPO - Theo các doanh nghiệp dệt may, mặc dù có những lợi thế lớn sau 4 năm thực thi, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đang đứng trước những thách thức mới đến từ các chính sách Xanh của EU đưa ra những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và tiêu dùng theo hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn.

Doanh nghiệp phải đáp ứng nhiều quy định khắt khe hơn

Chia sẻ tại tọa đàm “Kế hoạch của EU về kinh tế tuần hoàn (CEAP) và hệ lụy đối với doanh nghiệp Việt Nam” do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 27/11, ông Đỗ Hữu Hưng, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương) cho rằng, có thể khẳng định Hiệp định thương mại tự do EVFTA giữa Việt Nam và EU là đòn bẩy rất là tích cực đối với cả các lĩnh vực thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu EU. Sau 4 năm kể từ hiệp định có hiệu lực, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều giữa hai bên đã tăng từ 49 tỷ lên gần 64 tỉ USD.

Theo ông Hưng,gần đây EU liên tục có các chính sách, quy định mới nghiêm ngặt liên quan tới bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, trong đó có Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn của EU (CEAP) trong khuôn khổ Thỏa thuận xanh châu Âu hướng đến giảm phát thải ròng bằng 0 sớm nhất có thể vào năm 2050. Theo đó, CEAP sẽ có tác động đến bảy nhóm lĩnh vực xuất khẩu chính, trong đó là có thiết bị điện tử, công nghệ thông tin, nhóm về pin và nhóm về bao bì, nhóm về nhựa, dệt may, da giày cũng có sẽ bị ảnh hưởng cũng như là một số lĩnh vực khác.

“Đây là những quy định rất phức tạp, ngay cả bản thân cơ quan quản lý có nghiên cứu cũng thấy như vậy. Tuy nhiên hiện giờ phía EU cũng chưa có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết. Ví dụ như quy định DPP có thể đến cuối năm 2025 dự kiến họ mới có những quy định, hướng dẫn cụ thể hay liên quan đến ngăn chặn, tiêu hủy những sản phẩm dệt may và giày dép tồn kho thì có thể giữa năm 2026 họ mới chính thức áp dụng chẳng hạn”, ông Hưng cho hay.

Đại diện Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ cũng cho rằng, hiện nếu đánh giá tác động, trước tiên có thể nói các quy định của EU trong CEAP sẽ tác động trực tiếp đến xuất khẩu của Việt Nam. Đầu tiên là những sản phẩm không đáp ứng được những cái tiêu chuẩn của EU như liên quan đến hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số sẽ không thể thâm nhập được vào thị trường EU và hải quan sẽ không cho thông quan. Để đáp ứng được những quy định mới, các doanh nghiệp sẽ phải đầu tư sản xuất, chuyển đổi số, thay đổi quy trình sản xuất, quy trình quản lý. Chi phí đầu tư tăng cũng có thể khiến chi phí, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tăng, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh. Đây sẽ là những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực dệt may, da giày...

Tuy nhiên, theo ông Hưng, những quy định này cũng có thể tạo ra một số những cơ hội nhất định khi doanh nghiệp sẽ có những tệp khách hàng mới. Bên cạnh đó, mặc dù chi phí đầu tư sản xuất để thay đổi, để đáp ứng được những tiêu chuẩn EU ban đầu có thể cao, nhưng nhưng khi các doanh nghiệp đã có được chiến lược đầu tư bài bản, sẽ thu được những hiệu suất kinh doanh sản xuất tốt hơn và cũng sẽ giảm được chi phí về lâu dài.

Doanh nghiệp dệt may đối mặt nhiều áp lực về chuyển đổi sản xuất xanh, phát triển bền vững

Áp lực chuyển đổi giúp doanh nghiệp mạnh mẽ hơn

Về những thách thức mới khi phải đáp ứng các tiêu chuẩn về xanh hóa, bảo vệ môi trường, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty May Hưng Yên cho biết, sau 4 năm hiệp định EVFTA được thực thi, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp tăng gấp đôi, từ 20 triệu USD lên khoảng 40 triệu USD.

Theo ông Dương, ngành dệt may đang phải đối mặt với vấn đề về xuất xứ. Nếu như không đạt được yêu cầu về xuất xứ thì không thể thực hiện vào EU theo EVFTA và hưởng lợi về thuế quan. “Trong thời gian qua các nguồn nguyên liệu nhập khẩu hầu hết từ Trung Quốc, Đài Loan và một số nước khác không thuộc EVFTA. Đây chính là một thách thức rất lớn”, ông Dương nói.

Cũng theo lãnh đạo Tổng công ty May Hưng Yên, kinh tế tuần hoàn và sản xuất xanh vừa là thách thức và đồng thời cũng là cơ hội để doanh nghiệp phát triển, hội nhập với thế giới và đáp ứng các yêu cầu của thị trường hiện nay. Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sau so với tất cả các nền kinh tế thị trường khác cho nên việc đi sau cũng rất tốt cho doanh nghiệp. Các quy định buộc doanh nghiệp lập tức phải chuyển đổi, nếu không đáp ứng được thì không thể vào được thị trường.

Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty May Hưng Yên

Bản thân Tổng Công ty May Hưng Yên cũng phải chuyển đổi tất cả các lò hơi nước đốt than ngày trước sang dùng lò hơi điện. Việc này giúp tránh, giảm được ô nhiễm, và tăng cường được sức khỏe. Về khía cạnh kinh tế, tất nhiên tiền điện có thể tăng nhưng giảm được các chi phí về nhân công phục vụ cho cả hệ thống những lò hơi nước đó.

Theo tính toán của đại diện May Hưng Yên, ở khía cạnh kinh tế, dù phải đáp ứng các tiêu chuẩn mới, doanh nghiệp vẫn có lợi. Nếu tính cả hệ thống 13 doanh nghiệp dệt may thuộc công ty, đây sẽ là con số đáng kể. Cho nên thực tế vấn đề tiêu chuẩn xanh cũng đặt ra vừa là thách thức nhưng đồng thời cũng là cơ hội để doanh nghiệp phát triển.

Theo ông Dương, trước đây công ty đã làm những hoạt động về phát triển bền vững, sản xuất xanh. Ví dụ tất cả những vải vụn thì có những tổ hợp người ta thu mua đem về, may lại để sản xuất ra chăn gửi bán cho các vùng cao hoặc là may lại thành những sản phẩm mà có thể dùng được ở các vùng khác. Đấy là điều công ty cũng đã làm được và tới đây sẽ tiếp tục làm. Hoặc là việc xử lý những vải vụn sản xuất thành mút dùng trong ngành may…

"Kinh tế tuần hoàn cũng là vấn đề thúc ép cho doanh nghiệp sẽ làm những điều đó và đạt hiệu quả kinh tế hơn, giúp doanh nghiệp phát triển, để có thể hội nhập với tất cả trên thế giới và đáp ứng các yêu cầu của thị trường hiện nay. Về chuyển đổi số cũng vậy, chúng tôi cũng đã làm những việc đó khi mà ngoài việc tiếp tục bán hàng theo truyền thống thì bây giờ bán hàng trực tuyến, chúng tôi có thể chào hàng qua mạng tới các nhà mua hàng, sau đó tôi có thể bán hàng được”, ông Dương chia sẻ.

TS. Mai Thanh Dung, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng,khi đáp ứng các tiêu chuẩn xanh, doanh nghiệp đôi khi phải thay đổi cả công nghệ, thay đổi cả quy trình sản xuất, phải đầu tư thêm rất nhiều trang thiết, phải chi phí tốn kém cho quy trình sản xuất của mình theo hướng kinh tế tuần hoàn. Đấy là khó khăn nhất đối với các doanh nghiệp.

Cái khó nữa liên quan đến tư duy, suy nghĩ trong nếp sản xuất của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đôi khi hay bỏ những công đoạn này, bỏ những công đoạn kia để tiết giảm các chi phí nhân công... trong khi châu Âu người ta đặt ra quy trình bài bản rất đầy đủ và rất chi tiết, cụ thể. Còn chúng ta, nhiều doanh nghiệp chưa quen với cách tư duy như thế để quy trình sản xuất của mình phải được thiết kế một cách rất bài bản, chi tiết cụ thể, từ khâu đầu cho đến khâu cuối trong chu trình sản xuất của mình.

Ở khía cạnh tích cực, theo TS. Mai Thanh Dung, các quy định mới khắt khe hơn cũng là một cơ hội để các doanh nghiệp tự soi vào doanh nghiệp mình trong thời gian qua và để định hướng cho sự phát triển trong tương lai. Doanh nghiệp nào làm được tốt những quy trình hoặc những giải pháp kinh tế tuần hoàn, doanh nghiệp đấy sẽ đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh tốt hơn do tiết kiệm được nguyên liệu đầu vào, tiết kiệm được năng lượng, kéo dài được vòng đời sản phẩm, giảm thiểu được chất thải… Đấy là những hiệu quả chính cho doanh nghiệp và sau đó cho xã hội, bớt đi gánh nặng về xử lý những vấn đề môi trường cho trong hoạt động sản xuất kinh doanh.