> Thí sinh bị đình chỉ thi chủ yếu vì điện thoại
> Bấm vào đây xem bài giải đề thi môn Sinh học khối B
> Bấm vào đây để xem bài giải đề thi môn Tiếng Anh (Khối D)
> Bấm vào đây để xem bài giải đề thi môn Toán khối B
> Bấm vào đây để xem bài giải đề thi môn Toán khối D
> Bấm vào đâu xem bài giải đề thi môn Địa lí (khối C)
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2013
MÔN THI: LỊCH SỬ; Khối C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Trình bày sự chuyển biến về giai cấp trong xã hội Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Câu 2 (2,0 điểm)
Khi bước vào đông – xuân 1953-1954, Pháp – Mĩ có âm mưu và kế hoạch gì ở Đông Dương? Trưuớc tình hình đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đề ra phương hướng chiến lược như thế nào?
Câu 3 (3,0 điểm)
Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong việc thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965) ở miền Nam Việt Nam là gì? Nêu những thắng lợi trên mặt trận quân sự của quân dân ta ở miền Nam trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
II. PHẦN RIÊNG (3,0 điểm)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu 4.a hoặc câu 4.b)
Câu 4.a. Theo chương trình Chuẩn (3,0 điểm)
Nêu bản chất của toàn cầu hóa và những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa. Vì sao toàn cầu hóa vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước đang phát triển?
Câu 4.b. Theo chương trình Nâng cao (3,0 điểm)
Nêu những sự kiện chính trong mười năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai để làm rõ quá trình xác lập cục diện hai cực, hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cục diện đó là gì?
ĐÁP ÁN
I.PHẦN CHUNG (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
* Sự chuyển biến về giai cấp trong xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất:
-Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai trên quy mô lớn và chính sách thống trị của thực dân Pháp, đã làm cho cơ cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam có những chuyển biến mới.
-Giai cấp địa chủ: bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt là đại địa chủ, trung địa chủ và tiểu địa chủ. Một bộ phận trung và tiểu địa chủ có ý thức dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai khi có điều kiện.
-Giai cấp nông dân: bị thống trị, bị tước đoạt ruộng đất, bần cùng hóa. Mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam (là lực lượng đông đảo nhất) với đế quốc Pháp và phong kiến tay sai hết sức gay gắt. Đó là cơ sở của sự bùng nổ các cuộc đấu tranh của nông dân trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và tự do.
-Giai cấp tư sản: ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất và phân hóa thành hai bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản có quyền lợi gắn bó với đế quốc là kẻ thù của dân tộc. Tư sản dân tộc đã đi vào con đường phát triển kinh tế dân tộc, là lực lượng có khuynh hướng dân tộc và dân chủ.
-Giai cấp tiểu tư sản: (bao gồm những người buôn bán nhỏ, chủ xưởng nhỏ, thợ thủ công, học sinh, sinh viên, trí thức, công chức…) sau chiến tranh đã có sự phát triển nhanh về số lượng. Họ có ý thức dân tộc, dân chủ, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt, bộ phận trí thức, học sinh, sinh viên rất nhạy cảm với thời cuộc à tha thiết canh tân đất nước nên rất hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
-Giai cấp công nhân: phát triển nhanh về cả số lượng lẫn chất lượng. Công nhân Việt Nam bị thực dân và giới tư sản bóc lột. Họ có những đặc điểm riêng: gắn bó máu thịt với giai cấp nông dân, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản trên thế giới nên đã nhanh chóng vươn lên trở thành một động lực mạnh mẽ của phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại.
-Tóm lại, từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra những biến đổi quan trọng về kinh tế và giai cấp xã hội. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, mà chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc và tay sai diễn ra ngày càng gay gắt.
Câu 2: (2,0 điểm)
*Âm mưu và kế hoạch của Pháp – Mĩ ở Đông Dương khi bước vào Đông – Xuân 1953 – 1954:
-Đến năm 1953, trải qua 8 năm kháng chiến và kiến quốc, lực lượng kháng chiến của nhân dân ta đã lớn mạnh đáng kể.
-Trong khi đó, phía Pháp đã bị thiệt hại nặng nề, đến năm 1953 đã bị loại khỏi vòng chiến đấu 390.000 quân và tiêu tốn hơn 2.000 tỉ phrăng. Vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp trên chiến trường ngày càng đi vào thế phòng ngự, bị động.
-Trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, đồng thời tích cực chuẩn bị thay thế Pháp ở Đông Dương.
-Ngày 7.5.1953, với sự thỏa thuận của Mĩ, chính phủ Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương. Và Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
-Kế hoạch Nava được chia làm hai bước:
+ Bước thứ nhất (từ thu - đông 1953 đến xuân 1954): giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tấn công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương, dành lấy nguồn nhân lực, vật lực; xóa bỏ vùng tự do liên khu V, đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh.
+ Bước thứ hai (từ thu - đông 1954): chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh.
-Từ thu – đông 1953, Nava tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên đến 44 tiểu đoàn, tiến hành những cuộc càn quét, bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng núi biên giới phía Bắc, mở cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hóa (tháng 10.1953) để phá kế hoạch tiến công của ta.
*Phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng:
-Cuối tháng 9.1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Việt Bắc để bàn về kế hoạch quân sự Đông – Xuân 1953 – 1954.
-Nắm vững nhiệm vụ tiêu diệt địch là chính, phương hướng chiến lược của ta trong đông xuân 1953 – 1954 là: tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phải phân tán lực lượng mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng.
Câu 3: (3,0 điểm)
*Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” 1961 – 1965 ở miền Nam Việt Nam:
-Hoàn cảnh lịch sử: sau phong trào “Đồng khởi” (1959 – 1960), nhân dân ta ở miền Nam tiếp tục nổi dậy, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn.
-Âm mưu: “Chiến tranh đặc biệt” là một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống “cố vấn” Mĩ, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Âm mưu cơ bản của Mĩ trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là “dùng người Việt đánh người Việt”.
-Thủ đoạn:
+ Mĩ đề ra “Kế hoạch Xtalây – Taylo” với nội dung chủ yếu là bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Thực hiện kế hoạch, Mĩ tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Ngô Đình Diệm, tăng nhanh lực lượng quân đội Sài Gòn, tiến hành dồn dân lập “ấp chiến lược”, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới “trực thăng vận”, “thiết xa vận”. Viện trợ quân sự của Mĩ tăng gấp đôi. Thành lập bộ chỉ huy quân sự Mĩ tại Sài Gòn để trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ấp chiến lược được Mĩ và chính quyền Sài Gòn coi như “xương sống” của “chiến tranh đặc biệt” và nâng lên thành “quốc sách”. Chúng coi việc lập ấp chiến lược như một cuộc chiến tranh tổng lực nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình “bình định” miền Nam.
+ Được Mĩ hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành những hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngăn chận chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
*Những thắng lợi quân sự của quân dân ta ở miền Nam trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”:
-Trong những năm 1961 – 1962, quân giải phóng đã đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, đồng thời tiến công tiêu diệt nhiều đồn bốt lẻ của địch. Năm 1962 quân dân ta đã đánh nhiều cuộc càn quét lớn của địch vào chiến khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh, phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn.
-Ngày 2.1.1963, quân giải phóng đánh bại cuộc tiến công của hơn hai ngàn quân Sài Gòn vào Ấp Bắc (Tân Phú – Cai Lậy – Mĩ Tho), loại khỏi dòng chiến đấu hơn 450 địch (có 19 cố vấn Mĩ), bắn rơi 8 máy bay, bắn cháy 13 xe bọc thép M.113.
-Cuối năm 1964, quân và dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công đông xuân 1964 – 1965 với trận mở màn đánh ở ấp Bình Giã (Bà Rịa), loại khỏi vòng chiến đấu 1700 địch (trong đó có 60 cố vấn Mĩ), tịch thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.
-Thừa thắng sau chiến thắng Bình Giã, quân giải phóng và nhân dân miền Nam đẩy mạnh tiến công xuân - hè 1965 và giành nhiều thắng lợi trong các chiến dịch An Lão, Ba Gia, Đồng Xoài. Từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn hoặc bị thiệt hại nặng. Quân đội Sài Gòn, lực lượng nồng cốt của “Chiến tranh đặc biệt” không còn đủ sức đương đầu với các cuộc tiến công lớn của quân giải phóng và đứng trước nguy cơ tan rã. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt thất bại hoàn toàn”.
II. PHẦN RIÊNG (3 điểm) Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (4.a hoặc 4.b)
Câu 4a: (3,0 điểm)
*Bản chất của toàn cầu hóa:
-Một hệ quả quan trọng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ là từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa.
-Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
*Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa ngày nay là:
-Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế
-Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia
-Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn
-Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế thương mại tài chính quốc tế và khu vực.
-Toàn cầu hóa là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được.
*Toàn cầu hóa vừa là thời cơ, vừa là thách thức với các nước đang phát triển
-Về thời cơ:
+ Từ sau Chiến tranh lạnh, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi. Xu thế chung của thế giới là hòa bình ổn định và hợp tác phát triển.
+ Các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và lấy kinh tế làm trọng điểm, cùng sự tăng cường hợp tác và tham gia các liên minh kinh tế khu vực và quốc tế.
+ Các quốc gia đã phát triển có thể khai thác các nguồn vốn đầu tư, kỹ thuật - công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, nhất là các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, để có thể “đi tắt đón đầu”, rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước.
- Về thách thức:
+ Các nước đang phát triển cần nhận thức đầy đủ sự cần thiết tất yếu và phải tìm kiếm con đường, cách thức hợp lý nhất trong quá trình lội nhập quốc tế. Phải phát huy thế mạnh, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro, bất lợi, kể cả những sai lầm, để có những bước đi thích hợp, đúng đắn và kịp thời.
+ Phần lớn các nước đang phát triển đều có điểm xuất phát thấp về kinh tế, trình độ dân trí thấp, nguồn nhân lực đào tạo có chất lượng cũng còn rất hạn chế.
+ Các nước đang phát triển bị sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường thế giới và trong các quan hệ kinh tế quốc tế vẫn còn nhiều bất bình đẳng, gây thiệt hại đối với các nước đang phát triển.
+ Vấn đề sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay nợ vẫn còn bất hợp lý.
+ Vấn đề giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc cũng cần được lưu ý, phải kết hợp một cách hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
+ Vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền của quốc gia cũng cần phải đặc biệt lưu ý
Câu 4b: (3,0 điểm)
*Những sự kiện chính trong 10 năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến quá trình xác lập cục diện hai cực, hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
- Sự kiện được xem là khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô, gây nên tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ là thông điệp của tổng thống Truman đọc tại quốc hội Mĩ ngày 12.3.1947, tổng thống Mĩ khẳng định: sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho hai nước Hi Lạp và Thỗ Nhĩ Kì.
- Đầu tháng 6.1947, Mĩ đề ra “kế hoạch Mácsan” với khoản viện trợ 17 tỉ USD để giúp các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh. Thông qua kế hoạch này, Mĩ còn nhằm tập hợp các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Việc thực hiện “kế hoạch Mácsan” đã tạo nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu TBCN và các nước Đông Âu XHCN.
-Ngày 4.4.1949, Mĩ thành lập khối quân sự: Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Đây là liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản phương Tây do Mĩ cầm đầu nhằm chống Liên Xô và các nước XHCN.
-Để khôi phục đất nước sau chiến tranh, tháng 1.1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế nhằm thực hiện sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước XHCN.
-Tháng 5.1955, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava, là một liên minh chính trị - quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước XHCN châu Âu.
-Sự ra đời của NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava là những sự kiện đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm cả thế giới.
*Nguyên dân chủ yếu dẫn đến cục diện hai cực, hai phe:
-Từ liên minh cùng nhau chống phát xít, sau chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu, dần dần đi tới tình trạng chiến tranh lạnh.
-Trước hết, đó là sự đối lập về mục tiêu và chiến lược của hai cường quốc. Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của CNXH và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước XHCN, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Mĩ hết sức lo ngại ảnh hưởng to lớn của Liên Xô cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, đặc biệt là sự thành công của cách mạng Trung Quốc với sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. CNXH đã trở thành một hệ thống thế giới, trải dài từ Đông Âu tới phía Đông châu Á.
-Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ đã vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, vượt xa các nước tư bản khác, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử. Do đó, Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới, như tổng thống Truman công khai tuyên bố: Ngày nay Hoa Kì là một quốc gia mạnh, không có một quốc gia nào mạnh hơn… Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế, nước Mĩ chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới.
ThS. Nguyễn Văn Tiến
Trung tâm LTĐH Vĩnh Viễn TP.HCM