48 tỉnh dùng SGK của GS Hồ Ngọc Đại: Có mâu thuẫn với Hội đồng thẩm định?

TPO - Năm học 2018 – 2019, cả nước có 48 tỉnh triển khai dạy SGK tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục của GS. Hồ Ngọc Đại với 923.842 học sinh.
Đánh giá về hiệu quả của SGK tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục tại hội nghị Tổng kết năm học 2018 – 2019 của giáo dục Tiểu học, Bộ GD&ĐT cho biết: Căn cứ kết quả nghiên cứu và áp dụng thí điểm trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 tại một số cơ sở giáo dục, Bộ GD&ĐT đồng ý cho các địa phương có nhu cầu và đảm bảo các điều kiện được áp dụng vào việc dạy học Tiếng Việt lớp 1, nhất là ở những vùng khó từ năm học 2008- 2009 đến năm học 2016- 2017 trên tinh thần tự nguyện của các địa phương.

Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT trong 3 năm học  liên tiếp gần đây, từ 2016 đến 2019, cả nước có 48/63 tỉnh thành triển khai dạy SGK tiếng Việt 1 giáo dục công nghệ của GS. Hồ Ngọc Đại. Số trường, số học sinh học tăng lên hàng năm. Cụ thể, năm 2016 – 2017, có 6.651 trường với 678.800 học sinh; Năm 2017- 2018 có 7.511 trường với 771.777 học sinh; Năm học 2018 – 2019 có 8.198 trường với 923.842 học sinh.
48 địa phương  triển khai dạy SGK tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục

Về kết quả học tập, Bộ GD&ĐT khẳng định, đa số học sinh nắm chắc cấu tạo ngữ âm Tiếng Việt nên đều đọc được và đọc tốt; nắm chắc các quy tắc chính tả, học đến đâu chắc đến đó, không bị nhầm lẫn khi viết chính tả; đặc biệt học sinh được rèn nền nếp học tập ngay từ những ngày đầu vào lớp 1;

Về kỹ năng: Học sinh thành thạo các thao tác; hiểu và thực hiện tương đối tốt các lệnh trong quá trình học; được tham gia tích cực vào các hoạt động học tập, học sinh có kĩ năng đọc và nghe - viết chính tả tốt;

Về thái độ: Học sinh hứng thú học, yêu thích môn học;

Về năng lực, phẩm chất: Học sinh chủ động, tự tin tham gia các hoạt động học tập; thông qua việc làm, các thao tác học, tự tìm ra và chiếm lĩnh tri thức, được phát huy khả năng tư duy và năng lực tối ưu của bản thân một cách nhẹ nhàng, hứng thú.

Trong đó các địa phương được Bộ GD&ĐT đánh giá là đạt các thành tích nổi bất về quản lý, có nhiều sáng tạo, vận dụng linh hoạt trong công tác chuyên môn, khắc phục khó khăn đặc thù của địa phương và kết quả học tập cuối năm của HS rất đáng ghi nhận … phần lớn là các tỉnh miền núi như: Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam.

Bên cạnh đó cũng có các địa phương vùng thuận lợi triển khai tốt như Hải Phòng, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Ninh Bình, Huế, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau...

Đa số học sinh dân tộc thiểu số đạt yêu cầu chương trình

Trước đó, Ngày 6/12/2018, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã tổ chức nghiệm thu nhiệm vụ Khoa học và công nghệ cấp Bộ “Nghiên cứu đánh giá sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục và đề xuất các giải pháp chỉ đạo trong thời gian tới”, do PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Phương làm chủ nhiệm.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, về chất lượng sách có một số ưu điểm như thể hiện sự thương yêu dành cho trẻ em qua cách đối xử của cha mẹ, thầy cô và những người khác; thể hiện tường minh yêu cầu về cấu trúc ngữ âm tiếng Việt và luật chính tả, chú trọng phát triển kĩ năng đọc thành tiếng và viết chính tả cho HS lớp 1;

HS được đọc toàn âm tiết không nhất thiết phải đánh vần, phù hợp với bản chất “chỉnh thể trọn vẹn” của âm tiết tiếng Việt; cách thiết kế sách hỗ trợ khá tốt hoạt động kiểm tra, đánh giá của giáo viên.

Bên cạnh đó còn hạn chế: chưa thể hiện rõ ràng việc phát triển các kĩ năng nói và nghe, năng lực sử dụng tiếng Việt trong văn hóa và đời sống; không dạy đọc hiểu nghĩa tường minh và “vượt quá mức” của CT về cấu trúc ngữ âm TV; hạn chế sự sáng tạo của giáo viên và tích cực hóa HS khi họ phải tuân thủ nghiêm nhặt qui trình 4 VIỆC LÀM của sách; chưa cập nhật những thành tựu về “dạy ngôn ngữ thông qua giao tiếp đọc, viết, nghe, nói” và xu thế phát triển công nghệ giáo dục trên thế giới.

Về hiệu quả sử dụng sách, kết quả nghiên cứu cho hay đa số học sinh đạt yêu cầu chương trình (khoảng 20% đạt kĩ năng cao, 75% nắm vững kiến thức âm, vần và quy tắc chính tả, 70% đạt yêu cầu đọc trơn, tốc độ 41 từ/ phút, 70% đạt yêu cầu viết, 55% đạt yêu cầu nghe, nói). Học sinh dân tộc thiểu số có thể phân tích được ngữ âm, nắm được cấu trúc vần; đọc nhanh, đúng và chắc chắn; nghe, viết đúng chính tả; mạnh dạn, tự tin.

Vậy dư luận băn khoăn đặt câu hỏi những đánh giá của Bộ GD&ĐT và kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ có mâu thuẫn với đánh giá của Hội đồng thẩm định chương trình SGK mới hay không khi 15/15 thành viên hội đồng thống nhất SGK tiếng Việt 1 công nghệ giáo dục của GS. Hồ Ngọc Đại không đạt từ vòng đầu?