Nhưng gọi cấp cứu thì phải gọi sao cho nhanh nhất để hạn chế sự tổn thương có thể gây ra cho tim. Bởi tình trạng bệnh nhân sẽ xấu đi từng giờ và cùng với điều này, cơ hội sống và sự hạn chế mức độ nhồi máu sẽ nhỏ dần. Cơ hội sống sót thấp sẽ đến với những bệnh nhân được đưa đến bệnh viện sau từ 3 đến 6 giờ kể từ khi xuất hiện những triệu chứng nhồi máu cơ tim đầu tiên. Sau khoảng thời gian dài như vậy ở cơ tim sẽ hình thành những biến đổi nghiêm trọng theo chiều hướng hoại thư.
Khi máu không được cung cấp lên tim và bị ứ đọng lại do một trong số những động mạch vành bị tắc, chẳng hạn như mạch vách tim trước, thì khả năng cứu sống bệnh nhân chỉ có thể hy vọng vào quyết định xử lý ngay lập tức thủ pháp can thiệp tim trực tiếp. Người bệnh cần được đưa đến trung tâm chuyên điều trị bệnh này để áp dụng phương pháp thông mạch, nhưng phải đưa đi nhanh nhất, tốt nhất trong vòng 2 giờ đồng hồ. Cách xử lý thông mạch không dùng phẫu thuật có thể tiến hành trong vòng vài chục phút, chậm nhất là trước khi 2 giờ đồng hồ trôi qua.
Cách xử lý này có đặc điểm là sự can thiệp vào tim không lớn. Nó chỉ hạn chế ở việc bác sĩ sử dụng khéo léo thiết bị cực tiểu phía trong động mạch của người bệnh, thậm chí không cần gây mê sâu (ngoài việc gây mê cục bộ). Chỉ cần chọc được kim vào động mạch đầu mối dưới da ở vùng bả vai hoặc bẹn để đưa một ống dẫn (nhỏ, mỏng có đường kính từ 0,6 đến 2-3 mm). Ống dẫn này tạo điều kiện đưa vào mạch máu một bong bóng để sau khi dùng áp lực của dung dịch sẽ làm cho mạch máu ở chỗ bị tắc rộng ra.
Nhiều người hay chần chừ trong việc gọi xe cấp cứu, chẳng hạn như khi sự việc xảy ra vào đêm khuya, bệnh nhân ngại không muốn làm mất giấc ngủ của những người hàng xóm. Người bệnh cũng thường có xu hướng bỏ qua các biểu hiện của căn bệnh, với hy vọng bệnh tự khỏi. Trong khi khả năng cứu sống lớn nhất và khả năng bình phục sức khỏe chính là việc người đó được cấp cứu trong giờ đồng hồ đầu tiên sau khi bị nhồi máu. Cho đến năm 1960, trong tình trạng thật nguy kịch, các bác sĩ thường áp dụng phương pháp mổ phanh ngực để có thể đưa tay trực tiếp xoa bóp tim. Phương pháp này bắt đầu ngay trong những năm đầu tiên của thập kỷ 60 khi bác sĩ người Mỹ William B. Kouwenhoven đã làm cả thế giới kinh ngạc về khả năng duy trì sự tuần hoàn bên trong cơ thể bằng những động tác ấn đều đặn, nhịp nhàng ở vị trí xương ức. Nhờ 60 lần ấn trong một phút mà sự tuần hoàn và huyết áp được khôi phục trở lại mặc dù không ít trường hợp bệnh nhân bị tổn thương xương ức. Phương pháp này sau đó đã được hoàn thiện với sự kết hợp thở nhân tạo.
Trường hợp nhồi máu cơ tim nghiêm trọng sẽ xảy ra vào giai đoạn cuối cùng, nguy kịch nhất, khi người bệnh bất tỉnh do hậu quả của việc các mạch máu dẫn máu lên cơ tim bị nghẽn và do hậu quả của việc tim ngừng làm việc. Trong trường hợp đó, thời gian được tính bằng phút. Người bệnh đòi hỏi phải được trợ giúp ngay tức khắc, nhưng là sự trợ giúp của người có chuyên môn đích thực. Trước hết cần phải cho bệnh nhân uống trong thời gian ngắn nhất các loại thuốc trợ tim để làm tan các cục máu đã tụ lại và để thông mạch. Cơ hội cứu sống bệnh nhân có thể tăng cao nếu dụng từ 165 đến 325 mg axit acetylosalicyl (aspirina hoặc polopirina), tốt nhất là dưới dạng viên ngậm hấp thụ nhanh.
Cũng cần phải áp dụng những động tác cơ bản nhất nhằm cứu sống bệnh nhân, chẳng hạn như phương pháp thở nhân tạo bằng cách dùng miệng mình hút miệng bệnh nhân và xoa bóp tại vị trí tim ở bên ngoài lồng ngực. Cách cấp cứu này nói chung không trả lại nhịp đập chuẩn cho tim, không lấy lại hơi thở và ý thức của người bệnh, nó chỉ giúp người được cấp cứu duy trì sự sống cho đến khi sử dụng các loại thuốc trợ tim. Từ lúc tim ngừng đập và bệnh nhân ngừng thở cho đến lúc tiến hành các động tác cấp cứu không thể quá 5 phút. Nếu chậm hơn sẽ dẫn đến tổn thương não không thể nào hồi phục được.
Máy trợ tim, loại máy càng ngày càng trở nên thông dụng, thậm chí được đặt ở những nơi công cộng, có thể khôi phục hoạt động của tim. Có đến 85 phần trăm các trường hợp đột tử do bệnh tim có nguyên nhân trực tiếp của việc tim đập loạn nhịp và đập mạnh, và chính trong những trường hợp như vậy các hình thức trợ tim là phương pháp hiệu quả duy nhất nhằm khôi phục nhịp đập chuẩn của tim. Trong 80 phần trăm các trường hợp có thể tiến hành việc đó nhờ một trong ba loại thiết bị gây nên các rung động. Vì thế trợ tim sớm có thể tránh được phần lớn các trường hợp đột tử trong những giờ đầu tiên, và cả trong phần lớn các căn bệnh gây nên tình trạng ngừng tuần hoàn bất ngờ khác. Mọi sự chậm trễ trong việc xúc tiến kịp thời sự trợ giúp đều làm giảm khả năng sống sót của người bệnh đến 10 phần trăm, và nếu chậm trễ quá 10 phút thì khả năng sống sót coi như bằng không.
Hô hấp nhân tạo luôn là cuộc chạy đua với thời gian – cuộc chạy đua với cái giá là cuộc sống của người bệnh. Một người dù không có kinh nghiệm trong việc cấp cứu hồi sức, không nhất thiết phải lo ngại rằng mình sẽ phạm sai lầm. Bởi vì sự lo ngại đó quyết định việc người bệnh sẽ chết một cách vô phương cứu chữa, còn sợ gây hại cho một người mà hệ tuần hoàn đang ngừng hoạt động thì lại hoàn toàn không đáng có. Ở Mỹ mọi người chấp nhận một nguyên tắc là bất cứ ai, chỉ cần có niềm tin vào bản thân, đều có thể thực hiện các động tác trợ tim để cứu mạng người và sẽ không bị quy trách nhiệm pháp lý nếu có chuyện gì xảy ra.
Chú ý:
Trên 160 ngàn người ở Ba Lan được các bác sĩ báo động là có vấn đề nghiêm trọng về mạch vành và đang trong giai đoạn tiền nhồi máu cơ tim. Trong số những người này hàng năm có đến 20 ngàn đứng trước cái chết. Nhiều người trong số họ, mặc dù rất quan tâm đến sức khỏe của mình và tích cực đi khám, làm các xét nghiệm, nhưng họ vẫn không ý thức triệt để các nguy cơ bệnh tật.
Những chuẩn mực quốc tế mới nhất về việc tiến hành cấp cứu hồi sức khuyến cáo nên thực hiện việc trợ tim sớm trong vòng 5 phút kể từ khi nhận được điện thoại thông báo sự việc xảy ra tại một nơi bên ngoài bệnh viện và trong vòng 3 phút kể từ khi sự tuần hoàn bị ngưng trệ trong bệnh viện, trạm y tế, phòng thí nghiệm hay tại bất kỳ đơn vị chăm sóc y tế nào.
Các thiết bị trợ tim từ bên ngoài (viết tắt là AED) là những thiết bị rất đơn giản, dễ sử dụng và rất an toàn. Tự chúng có thể phân tích nhịp tim và nhận biết nhu cầu phải trợ tim như thế nào (chẳng hạn như loạn nhịp các ngăn tim). Chúng chỉ cho phép xúc tiến việc trợ tim khi có các dấu hiệu rõ ràng về nhu cầu này. Chúng thông tin cho người sử dụng việc cần phải làm trong thời điểm nhất định (trên màn hình monitor hiện ra những chỉ dẫn cần thiết). Nhờ đó việc trợ giúp có thể được những người lần đầu tiên tiếp xúc với thiết bị thực hiện, thậm chí trẻ em cũng có thể làm. Máy trợ tim loại bỏ nguy có giải phóng rung động tình cờ. Khi nó sẵn sàng trợ giúp, nút bấm giải phóng rung động bật sáng và nhấp nháy. Âm thanh cảnh báo cũng vang lên trong thời điểm không nên cho máy tiếp xúc với người bệnh. Đèn phụ chỉ rõ thời gian đã tiến hành cấp cứu hồi sức, số lần các rung động đã phát đi và thông tin về sự cần thiết phải tiến hành xoa bóp bên ngoài tim và cấp cứu bằng cách dùng miệng hút trực tiếp.
Theo Tri Thức Trẻ