SAM-2 (tên lửa đất đối không kiểu 2) là tên gọi mà các quốc gia phương Tây đặt cho loại tên lửa S-75 Đvi-na do Liên Xô (trước đây) chế tạo và viện trợ cho ta. Đây là tổ hợp tên lửa đất đối không tầm cao, được điều khiển bằng hệ thống ra-đa ba tác dụng. Đạn tên lửa dùng trong hệ thống SAM-2 là V-750.
Đạn V-750 có hai tầng: Động cơ đẩy sử dụng nhiên liệu rắn; động cơ hành trình sử dụng nhiên liệu tên lửa lỏng để duy trì quỹ đạo bay. Tầm bắn của tên lửa SAM-2 có thể lên đến gần 40km và độ cao bắn lên đến 25km. Độ cao bắn này giúp tên lửa hoàn toàn có khả năng “hạ gục” máy bay B-52. Đầu đạn của SAM-2 là loại tạo mảnh, chứa gần 200kg thuốc nổ và có tốc độ bay đạt Mach 3. Bán kính tiêu diệt mục tiêu của đạn tên lửa V-750 khoảng 65m (ở độ cao lớn, khí quyển loãng, bán kính tiêu diệt mục tiêu có thể lên đến 250m).
Các đầu nổ của đạn tên lửa đều được lắp hai hệ thống ngòi nổ: Hệ thống ngòi nổ sát thương và hệ thống ngòi nổ tự hủy. Khi cách mục tiêu khoảng 60m, hiệu ứng vô tuyến sẽ kích hoạt ngòi nổ sát thương gây nổ đạn. Ngòi nổ tự hủy của đạn tên lửa hoạt động ở chế độ tự động và chỉ được kích hoạt ở độ cao hơn 23km khi ngòi nổ sát thương không hoạt động (trường hợp bắn trượt mục tiêu). Khi đầu đạn được kích nổ sẽ sinh ra nhiệt lượng rất lớn, sóng xung kích mạnh và tạo ra hàng chục nghìn mảnh đạn để tiêu diệt mục tiêu.
Ngoài yếu tố quyết định là sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta thì sự giúp đỡ của các chuyên gia quân sự Liên Xô trong lĩnh vực tên lửa phòng không có vai trò rất quan trọng làm nên chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”. Ngay từ tháng 4-1965, các chuyên gia quân sự thuộc Binh chủng Tên lửa phòng không của Liên Xô đã tới Việt Nam để huấn luyện kỹ thuật cho bộ đội tên lửa Việt Nam.
Nội dung huấn luyện gồm: Cấu tạo, tính năng, cách vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa tên lửa SAM-2; huấn luyện trắc thủ, tổ chức khẩu đội chiến đấu… Đầu tháng 7-1965, sau khi tiếp nhận đầy đủ vũ khí, khí tài tên lửa và được huấn luyện thuần thục, hai Tiểu đoàn 63 và 64 thuộc Trung đoàn Tên lửa phòng không 236 (trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên của quân đội ta) đã đủ điều kiện để SSCĐ.
Tiếp theo, các chuyên gia quân sự Liên Xô tiếp tục giúp ta huấn luyện Trung đoàn Tên lửa phòng không 238, Trung đoàn Tên lửa phòng không 285, Trung đoàn Tên lửa phòng không 263… Năm 1968, bạn còn đưa các chuyên gia về lĩnh vực ra-đa sang giúp bộ đội Việt Nam nghiên cứu, đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả tác chiến của tên lửa trong điều kiện địch sử dụng các biện pháp gây nhiễu mới.
Được sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia Liên Xô, bộ đội tên lửa Việt Nam nhanh chóng làm chủ vũ khí, khí tài phòng không hiện đại. Tên lửa SAM-2 nhanh chóng được đưa vào chiến đấu đạt hiệu quả cao. Bộ đội tên lửa với vũ khí SAM-2 đã trở thành một trong những lực lượng nòng cốt bảo vệ bầu trời Tổ quốc.
Ngay trận đầu ra quân (ngày 24-7-1965), Tiểu đoàn 63 và 64 thuộc Trung đoàn Tên lửa phòng không 236 đã hiệp đồng chặt chẽ, mỗi tiểu đoàn phóng 2 quả đạn tên lửa, bắn rơi tại chỗ một chiếc máy bay F-4C, làm nên chiến thắng trận đầu của bộ đội tên lửa. Kể từ trận đầu xuất quân ngày 24-7-1965, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ (từ năm 1965 đến năm 1968 và năm 1972), các đơn vị tên lửa SAM-2 của quân đội ta đã đánh tổng cộng hơn 3.540 trận (trong đó có 588 trận đánh đêm), phóng hơn 5.880 quả đạn, bắn rơi 788 máy bay Mỹ (có 366 chiếc rơi tại chỗ), trong đó có 43 máy bay B-52. Tính trung bình cứ hơn 7 quả đạn tên lửa thì tiêu diệt một máy bay.
Trong 12 ngày đêm chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12-1972, các đơn vị tên lửa SAM-2 bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh phía Bắc đã bắn rơi 29 chiếc máy bay B-52 (trên tổng số 34 chiếc bị bắn rơi). Cho đến nay, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã sử dụng tên lửa SAM-2 để đánh thắng máy bay ném bom chiến lược B-52, hạ bệ “thần tượng” của không lực Hoa Kỳ.
Theo Quân đội nhân dân