Người Việt Nam đầu tiên được lấy màng tim “vá” cho chính mình hiện sống ra sao?

TPO - Ngày 7/3/2017, GS Shigeyaki Ozaki, GS.TS.TTND Lê Ngọc Thành – Giám đốc BV E cùng các bác sĩ Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện E đã tiến hành khám lại bệnh nhân B.V.N (35 tuổi, Hòa Bình) – bệnh nhân đầu tiên của Việt Nam được phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân vào năm 2013.
Các BS Trung tâm tim mạch BV E siêu âm kiểm tra sức khoẻ cho bệnh nhân đầu tiên được tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân

Tại đây, các bác sĩ đã tiến hành hội chẩn thêm 3 trường hợp khác để có thể tiếp tục phẫu thuật bằng kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim theo phương pháp Ozaki vào thời gian tới. Đó là bệnh nhân N.V.L (71 tuổi, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) bị hẹp hở van động mạch chủ dẫn đến đau tức ngực, khó thở và có mắc bệnh mãn tính gout; bệnh nhân N.C.T (67 tuổi, Bắc Giang) bị hở van động mạch chủ nặng, tim giãn; bệnh nhân N.V.S (63 tuổi, Hà Nội) hẹp kít van động mạch chủ…

“Đây là kỹ thuật lần đầu tiên ở Việt Nam do các bác sĩ Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện E thực hiện dưới sự hỗ trợ của GS Ozaki (Nhật Bản)” – GS Thành khẳng định. GS Ozaki là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ trong điều trị bệnh lý van động mạch chủ - trưởng khoa phẫu thuật tim ở BV Đại học Toho (Tokyo – Nhật Bản).

GS Thành cho biết: Cách đây 4 năm, GS Ozaki cùng các bác sĩ Trung tâm Tim mạch đã tiến hành mổ kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân cho bệnh nhân B.V.H, bị hở van động mạch chủ là tình trạng van không đóng kín, dẫn đến máu bị dồn ngược trở lại từ động mạch chủ về tim, làm tăng gánh nặng cho tâm thất trái và lâu dài sẽ dẫn đến suy tim. 

Có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra hở van động mạch chủ, phổ biến nhất là do di chứng của thấp tim (chiếm tới 75 %) hay do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn; bệnh van động mạch chủ bẩm sinh; viêm cột sống dính khớp; bệnh giang mai; lupus ban đỏ hệ thống; hay chấn thương…

Bệnh hở van động mạch chủ mạn tính thường tiến triển âm thầm trong nhiều năm mà không có biểu hiện gì. Bởi trong giai đoạn này, tim vẫn còn cơ chế tự bù trừ để chống lại các rối loạn. Chỉ đến khi chức năng thất trái bị suy giảm, tâm thất trái giãn nhiều, phân suất tống máu giảm, thì người bệnh mới bắt đầu xuất hiện triệu chứng. Khi các triệu chứng đã xuất hiện, bệnh sẽ có khuynh hướng tiến triển khá nhanh. 

Ban đầu là biểu hiện mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, sau đó dần xuất hiện khó thở khi nằm, cơn khó thở kịch phát về đêm, cảm giác đau thắt ngực và cuối cùng là các dấu hiệu của suy tim toàn bộ. Trong trường hợp hở van động mạch chủ nặng và đã có triệu chứng, người bệnh dễ bị đột tử do các rối loạn nhịp tim liên quan đến phì đại và rối loạn chức năng thất trái. Bệnh nhân hở van động mạch chủ vừa – nặng được điều trị nội khoa thường có tỷ lệ sống sau 5 năm là 75% và sau 10 năm là 50%. 

Tỷ lệ này sẽ tăng nếu họ được điều trị tích cực bằng thuốc, hay được chỉ định sớm thời điểm phẫu thuật hoặc cải tiến kỹ thuật mổ. Mặc dù thuốc có thể giúp cải thiện phần nào tiên lượng sống nhưng đó chỉ là giải pháp để trì hoãn thời gian mổ. Sau khi hội chẩn, được gia đình đồng ý, dưới sự hỗ trợ và chuyển giao kỹ thuật từ GS Ozaki, GS Thành cùng các bác sĩ Trung tâm Tim mạch đã quyết định thực hiện kỹ thuật thay van động mạch chủ bằng màng tim theo phương pháp Ozaki cho người bệnh.

Theo GS Thành, trên thế giới phần lớn vẫn tiến hành thay van tim nhân tạo bằng van sinh học và cơ học. Vật liệu van nhân tạo này có tuổi thọ từ 15 - 20 năm, trong trường hợp van bị hư hỏng, người bệnh cần được thay thế bằng chiếc van mới. Nhưng với phương pháp Ozaki, các bác sĩ tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân của chính bệnh nhân nên khắc phục được hoàn toàn những bất lợi trên.

Phân tích lợi điểm của phương pháp này, GS Thành cho hay, đây là kỹ thuật hiện đại rất phù hợp để ứng dụng can thiệp cho những bệnh nhân bị hỏng van tim ở người lớn tuổi trong trường hợp khẩn nguy. GS Thành dẫn chứng, trong 7 năm, GS Ozaki đã tiến hành mổ thành công trên 1.000 trường hợp, chủ yếu từ 60 - 80 tuổi, bằng kỹ thuật tiến tiến này nhưng cho đến thời điểm này chưa có bệnh nhân nào phải mổ lại. Ưu điểm tiếp theo là vấn đề huyết động học trong bệnh nhân mắc bệnh lý tim mạch được giải quyết triệt để. Luồng máu qua van động mạch chủ không bị cản trở, chênh áp qua van thấp (dưới 10), không hở van tim sau mổ. 

Bệnh nhân không dùng thuốc chống đông sau mổ, hạn chế được những biến chứng khi dùng thuốc chống đông. Do các bác sĩ dùng chính màng tim tự thân của bệnh nhân thay van động mạch chủ sẽ hạn chế được nguy cơ nhiễm trùng cho bệnh nhân.

Đặc biệt, khi áp dụng phương pháp này, chi phí điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh lý tim mạch có chỉ định thay van động mạch chủ sẽ giảm, nhất là khi bảo hiểm y tế chưa chi trả. Bởi vậy, chi phí thay van nhân tạo mất khoảng 40 triệu đồng, nhưng áp dụng phương pháp này, bệnh nhân không mất chi phí mua van tim nhân tạo. Điều này rất thích hợp với những quốc gia như Việt Nam có mức thu nhập của người dân còn thấp, kiểm soát đông máu sau mổ kém và bệnh nhân ở vùng sâu, vùng xa là phổ biến.