Theo chuyên san Journal of Vertebrate Paleontology, các nhà khoa học thuộc Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên ở Philadelphia (Mỹ) cho biết, loài cá có tên gọi Laccognathus embryi (được đặt theo tên của chuyên gia nghiên cứu Bắc cực người Canada Ashton Embry), từng tới lui tìm mồi trên các tuyến đường thủy tại Bắc Mỹ vào kỷ Devon, trước khi những loài động vật có xương sống tồn tại trên đất liền.
Kỷ Devon, cách đây 415 - 360 triệu năm, thường được gọi là Kỷ nguyên cá do sự tồn tại của nhiều loài thủy sinh sống ở các vùng biển, đầm phá và sông suối cổ. Laccognathus embryi là loài cá có vây, dài khoảng 1,5-1,8 mét, có đầu rộng và bẹt, mắt nhỏ và hàm cứng với những chiếc răng dài và nhọn.
Chuyên gia động vật học xương sống Edward “Ted” Daeschler, đồng tác giả nghiên cứu, phát biểu: “Tôi sẽ chẳng muốn lội hoặc bơi trong vùng nước mà loài cá này ẩn náu. Rõ ràng những hệ sinh thái cuối kỷ Devon là nơi nguy hiểm, và Laccognathus embryi là loài ăn thịt lớn rình rập dưới đáy với cú đớp mồi mạnh mẽ”.
Ông Daeschler và các cộng sự, những người vừa tìm thấy hóa thạch Laccognathus embryi, hồi năm 2004 cũng đã tìm thấy hóa thạch cá Tiktaalik roseae, vốn được xem là “mắt xích bị thất lạc” giữa cá với những loài động vật có chi sơ khai nhất.
Đáng chú ý là hóa thạch của loài cá “mới” cũng được tìm thấy tại cùng địa điểm với cá Tiktaalik roseae trên đảo Ellesmere thuộc vùng lãnh thổ xa xôi Nunavut của Canada. Hai loài cá này thuộc nhóm cá có vây giống chân hình tròn. Theo các nhà khoa học, những thành viên còn sống duy nhất của nhóm này là cá vây tay (coelacanth) và cá phổi (lungfish).
Theo các nhà nghiên cứu, việc phát hiện ra hai loài cá trên cung cấp thêm những manh mối để giới khoa học tìm hiểu về những điều kiện môi trường đã buộc cá “đổ bộ” lên đất liền và cuối cùng tiến hóa thành những loài động vật có chi, bao gồm cả loài người chúng ta.
Theo Trùng Quang
Thanh Niên