Qua một đêm, chính sách đã thay đổi
Phát biểu khai mạc tại một hội thảo về chính sách mới đây, ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhìn nhận, chất lượng văn bản pháp luật là rất quan trọng và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như sự thuận lợi của môi trường kinh doanh.
Theo ông Tuấn, trong việc thực thi pháp luật, đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, có một yêu cầu rất quan trọng đó là tính dự đoán trong việc ban hành thực thi pháp luật.
“Làm sao để các nhà đầu tư không phải một đêm dậy mà phải đối diện với một kế hoạch hoàn toàn khác khiến việc kinh doanh của hộ sụp đổ. Đây là một điều rủi ro mà chắc hẳn nhiều doanh nghiệp ở đây cảm nhận được”, ông nói.
Kết quả cuộc điều tra PCI do VCCI thực hiện với hơn 10.000 doanh nghiệp cho thấy, đối với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và vừa, khó khăn lớn nhất là tiếp cận nguồn lực như đất đai, vốn, mặt bằng kinh doanh, tiếp cận thị trường và khách hàng. Nhưng đối với những doanh nghiệp lớn, khó khăn lớn nhất là về thay đổi chính sách cũng như thủ tục hành chính.
“Tính ổn định chắc chắn trong xây dựng chính sách là rất quan trọng. VCCI nhận được rất nhiều đơn kêu cứu. Nhiều doanh nghiệp phàn nàn rằng 4-5 năm nay, họ kinh doanh vẫn vậy, mà bây giờ các quy định lại thay đổi ảnh hưởng đến việc kinh doanh của họ vào khoảng thời gian cả trước và sau khi luật thay đổi”, ông Tuấn nói.
Đồng quan điểm, chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung cũng chỉ ra rằng, một trong những điểm đang “trói” doanh nghiệp là khó tiên đoán trong thực thi luật pháp. Điều này dẫn đến thực tế “quyền tự do kinh doanh có cải thiện nhưng an toàn của chúng ta thì chưa được cải thiện”.
“Do sự thiếu an toàn trong hoạt động kinh doanh nên ứng xử về đầu tư vẫn thiên về ngắn hạn, nhỏ lẻ và không thể mang tính chiến lược dài hạn được. Thế nên càng mở cửa hội nhập thì chúng ta lại càng bị thua trên sân nhà vì không tận dụng được cơ hội”, ông nói.
Thay đổi chính sách – cần đúng thời điểm
Trong bối cảnh thực thi hàng loạt FTA với trọng tâm là CPTTP và EVFTA, các chuyên gia cho rằng, các nhà hoạch định chính sách tuân thủ các cam kết quốc tế là cần thiết để đảm bảo sự tương thích giữa các văn bản pháp lý trong nước và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, trong bối cảnh này, bất kỳ thay đổi nào về chính sách, đặc biệt với các đề xuất tăng thuế, cũng có thể tạo ra mối lo ngại hoặc nghi ngờ về thiện chí của Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương này.
Một số trường hợp ở các quốc gia khác đã cho thấy, thay đổi chính sách vào thời điểm không phù hợp có thể gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Năm 2014, nền kinh tế Nhật Bản bước vào một cuộc suy thoái nặng nề. Nền kinh tế lớn thứ ba thế giới bất ngờ rơi vào tình trạng suy thoái sau khi sụt giảm hai quý liên tiếp. Tỷ lệ sụt giảm trong Quý 2 /2014 là 7.3%, lớn nhất kể từ năm 2011 khi có thảm họa động đất và sóng thần, được cho phần lớn là kết quả của việc chính phủ tăng thuế tiêu thụ từ 1/4/2014. Khi đó, báo The Japan Times đã đưa ra cảnh báo rằng, việc tăng thuế kết hợp với phí bảo hiểm hưu trí cao và sự sụt giảm lợi nhuận, cùng với chi phí cho hàng nhập khẩu cao hơn do đồng yên suy yếu... có thể tước mất của các hộ gia đình 7.500 tỷ yên (74 tỷ USD). Hiện chi tiêu của các hộ gia đình chiếm đến 60% GDP, nên một khi mức chi tiêu thấp hơn có thể nhanh chóng tác động rộng rãi đến nền kinh tế quốc gia này. Một trưng cầu dân ý do Reuters thực hiện đầu tháng 12/2014 cho thấy lòng tin của các nhà sản xuất tại Nhật Bản giảm sút mạnh từ 13 trong tháng 11 xuống 10 trong tháng 12, và giảm mạnh nhất trong giới sản xuất ô tô. Các hệ quả này cũng đã buộc Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hoãn kế hoạch tăng thuế lần hai, dự định vào nằm 2015 đến tận tháng 10 năm nay, cùng hàng loạt sản phẩm được miễn trừ và các chiến dịch kích thích tiêu dùng.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI cũng nhận định, khi pháp luật Việt Nam bị định dạng trong khuôn khổ cam kết quốc tế thì có một điều rất tốt, đó là pháp luật Việt Nam có thể đi theo những chuẩn mực, xu hướng chung, từ đó chúng ta có được hệ thống pháp luật chất lượng. Bên cạnh đó, thông qua các cam kết về minh bạch và thực thi cũng làm cho hiệu quả thi hành pháp luật tốt hơn để đến cuối cùng là quyền và lợi ích của các bên thực thi pháp luật cũng được bảo vệ tốt hơn.
“Ở đây các cam kết cũng đặt ra quy định về việc minh bạch trong quá trình soạn thảo pháp luật. Soạn thảo là phải lấy ý kiến các đối tượng liên quan trong vòng bao nhiêu ngày và đảm bảo số ngày từ khi ban hành đến khi có hiệu lực. Trong quá trình thực thi thì phải được hướng dẫn cụ thể”, bà nói.
Bên cạnh đó, dưới góc độ nhà đầu tư nước ngoài, ông Mark Grillin, Trưởng nhóm công tác Thuế và Hải quan, Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) cũng chia sẻ, cơ quan soạn thảo chính sách cần xác định các đối tượng liên quan, đảm bảo có sự tham gia của họ trong suốt quá trình xây dựng chính sách, hiểu rõ mức độ ảnh hưởng lợi ích của chính sách đối với các bên liên quan, để loại trừ việc chính sách chỉ phục vụ lợi ích của một hoặc một số nhóm mà gây ra những rủi ro, thiệt hại cho các nhóm còn lại.
Đồng quan điểm với ông Mark Grillin, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bia – Rượu – Nước Giải khát Việt Nam, Ông Nguyễn Tiến Vỵ chia sẻ về kết quả nghiên cứu do hiệp hội phối hợp với một cơ quan nghiên cứu kinh tế đầu ngành để đánh giá tác động của những đổi mới trong chính sách thuế tiêu thụ đặc đối với doanh nghiệp trong ngành và kinh tế nói chung. Dựa trên cơ sở nghiên cứu, hiệp hội đưa ra rằng phần thu từ việc áp thuế tiêu thụ 10% đối với nước giải khát có đường không thể đạt 5,000 tỷ như cơ quan soạn thảo đã dự tính, mà việc áp thuế này thậm chí còn ảnh hường tới 21 ngành hàng khác, tác động đến nông dân trồng mía địa phương, người tiêu dùng và các ngành kinh tế khác. Vì vậy, hiệp hội đã kiến nghị các cơ quan nhà nước xem xét và nghiên cứu lại để đưa ra dự luật phù hợp trong thời gian tới.