Sự độc hại của khán giả Việt

TPO - Tố đạo nhạc vô căn cứ, định kiến những nghệ sĩ đi sau và áp đặt tiêu chuẩn âm nhạc quốc tế, đó là sự độc hại của một bộ phận khán giả Việt đang trực tiếp tạo sức ép đến giới ca sĩ.

Making My Way của Sơn Tùng vừa bị Đen Vâu vượt mặt trên danh sách thịnh hành của YouTube. Vậy là sau gần 2 tuần, ca khúc mới của giọng ca người Thái Bình chính thức bị xô đổ, tương ứng việc sức hút của Making My Way đã suy giảm. Hai tuần qua, một loạt câu chuyện xảy ra liên quan đến Sơn Tùng và một trong số đó là đề tài quen thuộc, “đạo nhạc”.

Sơn Tùng lại bị tố đạo nhạc

“Đạo nhạc” là từ khóa hot nhất trong giai đoạn Making My Way gây sốt trên thị trường. Ngay sau khi ca khúc phát hành, nhiều khán giả tố Sơn Tùng đạo nhạc bản hit tỷ view Unforgettable của French Montana và Swae Lee. Với Sơn Tùng, chuyện này chẳng có gì lạ, vì mỗi lần nam ca sĩ tung ca khúc đều vướng nghi vấn đạo nhạc.

Sơn Tùng là tâm điểm của chủ đề đạo nhạc.

Các khán giả chỉ ra Making My Way có dòng nhạc tương tự Unforgettable và nhạc cụ tương đồng. Đúng là 2 ca khúc có sự tương đồng ở những yếu tố trên. Thế nhưng, trong âm nhạc, dòng nhạc, nhạc cụ cơ bản để tạo nên đặc trưng của dòng nhạc đó (nhịp trống) là những thứ mặc định phải có. Tất cả nghệ sĩ trên thế giới đều tuân theo khuôn khổ chung khi chọn dòng nhạc cho ca khúc, nên không thể gọi là đạo nhạc.

Making My Way của Sơn Tùng có những chi tiết riêng biệt, nằm trong sự sáng tạo của người phối khí và viết giai điệu. Tiếng synth của Making My Way khác Unforgettable. Đoạn phát triển cuối bài của Making My Way cũng tạo nên chất riêng của ca khúc.

Thành công của Unforgettable, Despacito hay chính Hãy trao cho anh có thể là cảm hứng để Sơn Tùng sản xuất thêm một ca khúc màu Reggaeton. Nhưng một số khán giả tố Sơn Tùng đạo nhạc trong Making My Way khi bằng chứng chưa rõ ràng là sự độc hại cần loại bỏ.

Câu chuyện đạo nhạc trên thị trường Việt Nam không chỉ gắn với Sơn Tùng. Rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ vướng vào nghi vấn của khán giả. Có ca khúc bị tố vì tương đồng dòng nhạc giống Making My Way - Thức Giấc của Da LAB - hay ca khúc vô tình trùng vài nốt nhạc là Một ngàn nỗi đau của Văn Mai Hương và Hứa Kim Tuyền.

Ngay cả những thị trường lớn như Âu - Mỹ và Kpop, ca khúc rơi vào diện nghi vấn đạo nhạc nhiều không đếm xuể. Hiện không có tiêu chí cụ thể để xác định chính xác việc đạo nhạc của các ca khúc.

Hoàng Thùy Linh tiên phong nhưng không độc nhất.

“Đi sau là bắt chước”

Gần đây, một bộ phận khán giả tố nhiều nghệ sĩ “ăn theo” thành công của Hoàng Thùy Linh, là Hòa Minzy, Dương Hoàng Yến và Phương Mỹ Chi. Lý do bởi Hòa Minzy, Hoàng Yến và Mỹ Chi ra mắt những ca khúc pha giữa âm nhạc dân gian và hiện đại, đều thành công. Một số khán giả cho rằng Linh là người tiên phong trong việc nâng tầm thể loại nhạc này, nên mặc định ai đi sau đều bắt chước.

Đây không phải là ý kiến đơn lẻ, mà là cả một làn sóng trên mạng xã hội. Tất nhiên, Hoàng Thùy Linh không liên quan đến cuộc so sánh này, mà nó đến từ một bộ phận fan cuồng giọng ca See tình. Đúng là Hoàng Thùy Linh tiên phong trong việc đưa âm nhạc dân gian, pha trộn nhiều yếu tố hiện đại phủ sóng thị trường Việt. Song, nữ ca sĩ không độc tôn ở thể loại đó.

Từ cảm hứng âm nhạc dân gian, mỗi nghệ sĩ có cách khai thác khác nhau. Hòa Minzy dùng âm hưởng chèo, kết hợp trên bản phối điện tử. Ca khúc của Phương Mỹ Chi là sự pha trộn phức tạp của Disco, ngũ cung và ca trù. Cân cả thế giới của Dương Hoàng Yến dùng chất liệu gần tương tự Hoàng Thùy Linh, song vẫn có chất riêng như verse rap.

Âm nhạc là dòng chảy xuyên suốt. Chuyện người đi sau, lấy cảm hứng từ người đi trước là bình thường.

Thị trường nhạc Việt từng có làn sóng định kiến các ca khúc màu nhạc retro, đậm tiếng synth là bắt chước The Weeknd. Nó xảy ra ở Don’t Break My Heart (Binz), Ngôi sao cô đơn (Jack), Cơn đau (Wren Evans), Beautiful Monster (SOOBIN).

Thế nhưng, chính The Weeknd cũng từng chia sẻ, anh được truyền cảm hứng mạnh mẽ từ các ca khúc Synth-wave, Synth-pop từng gây sốt toàn cầu ở thập niên 80, 90. The Weeknd cũng sáng tác từ cảm hứng cũ, kết hợp cùng những thứ mới để cho ra sản phẩm mang dấu ấn cá nhân.

Chuyện “đi sau là bắt chước” chỉ xảy ra với một ca khúc sao chép toàn bộ ý tưởng về giai điệu, phối khí, thậm chí là ca từ. Trường hợp này không xảy ra với nhóm ca sĩ Việt bị tố bắt chước Hoàng Thùy Linh hay The Weeknd.

Nhạc Việt chưa thể bắt kịp thị trường lớn ở khâu sản xuất và quảng bá.

Những đòi hỏi thái quá

Hai năm qua, sự phát triển vượt bậc của mạng xã hội, đặc biệt là TikTok giúp nhiều bản nhạc Việt lan tỏa tới khán giả quốc tế. Đầu tiên là Ngẫu hứng của Hoaprox - một bản nhạc chưa hoàn chỉnh, dài hơn nửa phút, hút tỷ lượt nghe trên nền tảng Douyin của Trung Quốc. Sau đó, bản remix Hai phút hơn của Pháo và KAIZ thành cơn sốt trong giới nghe nhạc EDM toàn cầu.

Gần nhất, See tình của Hoàng Thùy Linh gây bão TikTok, được nhiều tên tuổi lớn của nhiều lĩnh vực cover điệu nhảy. Thế rồi, nữ ca sĩ được tung hô như một niềm tự hào của nhạc Việt. Và trong niềm hân hoan ấy, một bộ phận khán giả, truyền thông đặt câu hỏi: “Tại sao See tình chỉ hot trên TikTok, thay vì gây sốt một cách hiên ngang trên các bảng xếp hạng âm nhạc thế giới.

Making My Way của Sơn Tùng cũng bị đặt vào câu chuyện vĩ mô, là: “Có đủ vươn ra thế giới để sánh ngang các ngôi sao quốc tế không?”.

Một ca sĩ, ca khúc Việt tỏa sáng trên thị trường quốc tế là điều những người làm nhạc và yêu nhạc mong mỏi. Thế nhưng, ngay lúc này, còn quá sớm để mơ kịch bản đó vì thị trường nhạc Việt còn quá non trẻ. Chúng ta vẫn cách những thị trường hàng đầu một khoảng rất xa. Nội lực về tài năng, cá tính của nghệ sĩ chỉ là một phần nhỏ. Điều đó đến từ yếu tố tài chính đang tác động rất mạnh đến các khâu đằng sau ánh đèn sân khấu.

Thành công của 2 nhóm nhạc BTS và BlackPink là cảm hứng để các nghệ sĩ Việt tìm đường len lỏi đến Âu - Mỹ. Song, thực tế giữa 2 thị trường Kpop và Vpop khác xa. Bản chất của Kpop là thị trường âm nhạc lớn, tên tuổi đã ít nhiều vang danh đến Mỹ trước khi BTS nổi lên. Những sản phẩm của BTS, BlackPink khi hoạt động tại Hàn Quốc đã hút vài trăm triệu views trên YouTube. Sau lưng họ là những công ty được định giá tỷ USD.

Trong khi đó, thị trường nhạc Việt còn non trẻ. Hoàng Thùy Linh và Sơn Tùng cũng chỉ nắm trong tay ê-kíp có thực lực vừa phải. Với họ, việc phải làm là duy trì vị thế với khán giả Việt, đồng thời chọn một số nước đi phù hợp để góp phần đưa nhạc Việt ra thế giới, như Sơn Tùng kết hợp với Snoop Dogg để “bám sóng” ra quốc tế.

So sánh ca sĩ Việt trên tiêu chuẩn quốc tế cũng tương tự việc đặt phim của Trấn Thành lên bàn cân Hollywood, hay so sánh một trận bóng đá ở V.League với Premier League của Anh. Bản chất vẫn nằm ở mặt bằng thị trường còn non trẻ và chịu sự ảnh hưởng rất lớn của yếu tố kinh tế, sự đầu tư để sản xuất ra thành phẩm ở tiêu chuẩn hàng đầu.

Vậy thị trường nhạc Việt đang đứng ở đâu?

Chúng ta vẫn phát triển từng ngày. Nhạc Việt giờ không còn là thời của những ca khúc nhạc Hoa lời Việt, hay dùng beat có sẵn trên mạng. Các ê-kíp sản xuất âm nhạc đã hình thành, với số lượng đông để từng bước nâng cao chất lượng dây chuyền sản xuất, đặc biệt ở khâu mixing và mastering. Giờ đây, cũng không còn đất sống cho những ca khúc sao chép hoàn toàn ý tưởng quốc tế. Mà các ê-kíp phải sáng tạo, lao động nghiêm túc để tránh rơi vào điều tệ hại là đạo nhạc.

Không những thế, nhiều producer Việt sáng tạo, pha trộn giữa xu hướng âm nhạc quốc tế và những nét truyền thống nhạc Việt để cho ra màu sắc độc đáo. Loạt hit của Hoàng Thùy Linh là minh chứng. Hay, cách Sơn Tùng dũng cảm hát tiếng Anh trọn vẹn ca khúc cũng là điểm sáng cần khích lệ, dù rằng còn đó nhiều vết gợn.

Giai điệu của See tình, Ngẫu hứng, Ngây thơ được khán giả quốc tế đón nhận là sự khởi sắc của nhạc Việt. Sự nổi tiếng chỉ xảy ra ở một đoạn nhạc, cũng phản ánh rõ chúng ta đang ở đâu. Nhạc Việt còn cần thêm rất nhiều thời gian để một ca sĩ thật sự vươn ra biển lớn.