Phiền toái do xuất tinh muộn

 Xuất tinh muộn, không xuất tinh và không đạt cực khoái ở nam giới là một trong hai dạng rối loạn xuất tinh.
Ảnh minh họa: Internet

Rối loạn xuất tinh là một bệnh lý phổ biến ở nam giới, bệnh không những ảnh hưởng đến đời sống tình dục, đến hạnh phúc gia đình mà còn là một trong những nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới. Xuất tinh muộn, không xuất tinhvà không đạt cực khoái ở nam giới là một trong hai dạng rối loạn xuất tinh. Chúng ta nên nắm vững những kiến thức cơ bản nhất của bệnh này.

Rối loạn cực khoái ở nam giới là một chuỗi các rối loạn từ xuất tinh muộn đến hoàn toàn không có khả năng xuất tinh và xuất tinh ngược dòng. Xuất tinh muộn là hiện tượng có đầy đủ các điều kiện ham muốn tình dục, kích thích, đủ độ cương cứng dương vật nhưng lại gặp khó khăn đi đến xuất tinh. 

Cuộc giao hợp trở thành quá ngưỡng kích thích. Cả đôi bên đều mệt mỏi, chán chường không còn hào hứng để đón nhận những khoái cảm. Tỷ lệ xuất tinh muộn chiếm 2 - 6% trong rối loạn xuất tinh. 

Nguyên nhân gây bệnh có thể là tâm lý hay thực thể. Về tâm lý có thể do: cảm giác sợ có thai, giảm hưng phấn tình dục (bạn tình thiếu gợi cảm, cảm giác sợ hãi hoặc đang xung khắc với bạn tình). 

Về nguyên nhân thực thể có thể do một số bệnh nội khoa, thuốc hoặc phẫu thuật ảnh hưởng đến trung tâm thần kinh điều khiển phản xạ xuất tinh hoặc tác động lên thần kinh giao cảm chi phối túi tinh và cổ bàng quang, hoặc tác động lên thần kinh vận động chi phối sàn chậu và dương vật, gây xuất tinh muộn, không xuất tinh và không đạt cực khoái. 

Trên một số người nghiện ma túy, nghiện rượu cũng bị giảm quá trình hưng phấn tình dục.

Rối loạn xuất tinh và không đạt cực khoái ở người lớn tuổi thường do hậu quả của phẫu thuật tiền liệt tuyến, có bệnh lý đái tháo đường. Một số thuốc kháng adrenergic trong đó có một số thuốc dùng để điều trị xuất tinh sớm cũng có thể gây hậu quả xuất tinh muộn. Một số thuốc như ức chế alpha và ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin có thể gây mất cực khoái.

Ở bệnh nhân bị xuất tinh muộn, không xuất tinh hoặc không đạt khoái cảm tình dục. Khi khám lâm sàng thấy kích thước, mật độ 2 tinh hoàn (tinh hoàn teo có thể là bệnh lý suy sinh dục, không xuất tinh hoặc xuất tinh rất ít), sờ không thấy ống dẫn tinh 2 bên (phối hợp với siêu âm qua ngả trực tràng thấy bất sản túi tinh 2 bên). Trong bệnh lý bất sản ống dẫn tinh 2 bên thì thể tíchxuất tinh cũng rất ít, giúp có thể chẩn đoán phân biệt với một bệnh cảnh không tinh trùng do bế tắc,...

Điều trị xuất tinh muộn

Xuất tinh muộn hay không xuất tinh còn có thể liên quan đến một số bệnh nội khoa như tổn thương thần kinh ngoại biên do bệnh đái tháo đường, hay dùng thuốc ức chế adrenergic blocker. Phẫu thuật cải thiện chức năng giao cảm thần kinh ngoại biên hoặc kiểm soát đường huyết ổn định ở các bệnh nhân bị đái tháo đường góp phần cải thiện tình trạng xuất tinh muộn.

Nhìn chung, đa số bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật nạo hạch vùng bụng, đái tháo đường biến chứng thần kinh ngoại biên đều có thể cải thiện ít nhiều tình trạng xuất tinh muộn, nhất là không xuất tinh, khi cho dùng thuốc cường giao như ephedrine, midodrine; hoặc dùng thuốc chống trầm cảm 3 vòng như imipramine, một số báo cáo tỉ lệ cải thiện khả năng xuất tinh khoảng 30%.

Điều trị bằng phương pháp kích thích dương vật bằng điện, kích thích rung dương vật, xoa bóp tiền liệt tuyến cũng hiệu quả cho một số trường hợp xuất tinh muộn hoặc không xuất tinh.

Điều trị tâm lý, bệnh xuất tinh muộn ảnh hưởng bởi sự lo âu, mối quan hệ với bạn tình. Do vậy thái độ tiếp xúc ban đầu của người thầy thuốc phải tạo được không khí thoải mái và kín đáo một cách tế nhị. 

Người thầy thuốc cần tạo niềm tin với người bệnh, hướng dẫn cho bệnh nhân các biện pháp tự điều chỉnh, tự tin hơn. Điều trị tâm lý là nhằm giải quyết những trở ngại trong quan hệ tình dục để duy trì cuộc sống hòa hợp lứa đôi. Mỗi bên cần được động viên, chia sẻ cởi mở với nhau, cần phải đối mặt với thực trạng để tìm những biện pháp hợp lý cho cả đôi bên thì mới hy vọng thành công.

Điều trị dùng thuốc trên nguyên tắc bệnh nhân được thăm khám và làm các xét nghiệm, bác sĩ sẽ có hướng điều trị cụ thể.

Phong bế vùng thần kinh đuôi ngựa của phần cuối đốt sống, có thể sử dụng vì có tác dụng điều chỉnh sự hoạt động cân bằng nhịp nhàng giữa hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm bằng cách châm cứu.

Ngoài ra, có thể dùng phương pháp phẫu thuật đặt qua hậu môn máy phát sóng xung động kích thích vùng túi tinh để kích thích cho việc xuất tinh dễ dàng. 

BS. Anh Thư

Theo Sức khỏe & Đời sống