Báo cáo tại hội thảo, Bộ Công Thương cho biết, đến nay, về cơ bản, thủy điện vừa và lớn đã được khai thác hết. Từ sau năm 2020 sẽ phải tiếp tục phát triển và khai thác các dự án thủy điện nhỏ ít tác động tới môi trường. Đối với các nhà máy nhiệt điện than, theo quy hoạch, tổng nguồn than trong nước cho điện có thể đưa vào cân đối trong dài hạn khoảng 45 - 50 triệu tấn, đủ cấp cho khoảng 15.000 MW. Từ năm 2017, dự kiến nhập khẩu than, lượng than nhập khoảng 85 triệu tấn vào năm 2030.
Với nguồn nhiệt điện khí, sau năm 2023, dự kiến nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) để bổ sung khí cho các nhà máy tua-bin khí cụm Phú Mỹ, Bà Rịa, Nhơn Trạch khi khí từ mỏ Nam Côn Sơn giảm. Tổng công suất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối trong dài hạn chỉ dừng ở mức hơn 12.000 MW. Các nguồn năng lượng tái tạo khác như thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối đóng góp không được nhiều, chỉ đạt khoảng 27.200 MW với tỷ trọng 21% vào năm 2030.
“Với tốc độ tăng trưởng nhu cầu sử dụng điện trong thời gian tới, nhiệt điện than đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2020, tổng công suất nhiệt điện than khoảng 26.000 MW chiếm 49,3% điện sản xuất. Năm 2025 đạt khoảng 47.600 MW, chiếm 55% điện sản xuất”, Bộ Công Thương cho biết.
TS Nguyễn Mạnh Hiến, nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng, cho rằng, nhiệt điện than vẫn có nhiều ưu điểm khi giá thành điện và vốn đầu tư thấp, khả năng huy động công suất lớn. Đây cũng là xu hướng được cả thế giới áp dụng. Ngay tại Trung Quốc, hiện gần 75% nguồn phát là từ nhiệt điện than với tổng công suất lên tới 1 triệu MW. “Với một nhà máy nhiệt điện than đưa vào hoạt động, nếu muốn thay thế, phải xây dựng 3 nhà máy nhiệt điện gió cùng công suất mới đủ nguồn cung cấp điện tương đương. Còn nếu làm nhà máy sản xuất điện năng lượng mặt trời thì tiền đầu tư còn phải lớn hơn nhiều”, ông Hiến nói.
Theo ông Hiến, vấn đề của nhiệt điện than chỉ là áp dụng công nghệ thế nào để đảm bảo môi trường. “Như Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải ở ĐBSCL với tổ máy công suất 600 MW đang áp dụng công nghệ siêu tới hạn. Đây là công nghệ rất đắt tiền và giảm lượng phát thải rất lớn, hạn chế được những vấn đề liên quan đến tiêu hao than và phát thải ô nhiễm, đặc biệt là NOx nên việc lo ngại ô nhiễm là không có cơ sở”, ông Hiến nói.
Tái chế tro xỉ thành vật liệu xây dựng
Tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện ở các nước là nguyên liệu phục vụ sản xuất gạch, xi măng, còn ở Việt Nam lại bị coi là chất thải, nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường... cũng là vấn đề được các chuyên gia mổ xẻ tại hội thảo. Theo PGS. TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Nhiệt Việt Nam, không nên nhìn nhận tro xỉ là chất độc hại, mà nên coi nó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất phục vụ xây dựng.
“Ninh Bình trước đây bị coi là tâm điểm gây ô nhiễm nay đi vào nhà máy nằm ở ngay trung tâm Ninh Bình mọi thứ đều sạch sẽ, không có ai kêu ca về tro xỉ nữa. Đề nghị Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng có cách thức như nào đó để yêu cầu tất cả các nhà máy nhiệt điện phối hợp trong việc tái sử dụng tro bay, có thể quy định bằng pháp lệnh để ràng buộc, chứ không phải doanh nghiệp thích thì làm, không thì thôi như hiện nay”, ông Nghĩa nói.
Ông Nguyễn Văn Thanh, Trưởng phòng An toàn sức khỏe và Môi trường (Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam), phát biểu: “Các bộ, ngành cần sớm xem xét và tháo gỡ cho các đơn vị có nhu cầu sử dụng tro xỉ làm vật liệu xây dựng để giải phóng lượng chất thải đang bị tồn”.
Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng phát biểu, các nhà máy nhiệt điện thời gian qua để xảy ra một số vấn đề về môi trường, khiến người dân lo ngại. “Vấn đề là đảm bảo cho việc phát triển than như thế nào để không ảnh hưởng đến môi trường”, ông nói.