Tiền Phong số 68

8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Sáu n Ngày 8/3/2024 Vui không có hạn, sầu không hạn/ Nằm giữa lòng trăng, khóc giữa trời. Hai câu thơ của cố nữ sỹ Vân Đài mà sinh thời thi sỹ Bùi Giáng đã cho rằng “Quả thực bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam chỉ có thể nẩy hột tinh hoa ra hai câu thơ như thế...Ta phải coi Vân Đài nữ sỹ như bà nội, bà ngoại chúng ta thì mới cảm hết cái mênh mông trong mấy vần thơ này”. Có thể thi sỹ họ Bùi có cách nói khác người, nhưng quả thực những câu thơ như thế cứ ngân lên trong tôi mỗi lần nghĩ về thơ. Và mỗi lần mùa xuân đến, đi qua những cánh đồng lúa xanh rờn trong mưa bụi tôi lại nhớ tới “Bức tranh quê” của cố nữ sỹ Anh Thơ: Trên đồng lúa xanh rờn và ướt lạnh/ Đàn sáo rừng sà xuống mổ vu vơ / Những cánh bướm bay dập dờn trước gió/ Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa... Vẻ đẹp làng quê Việt Nam có lẽ muôn đời vẫn là vẻ đẹp của thi ca, trong thi ca, như chính quê hương tôi, nơi có đèo Ngang nổi tiếng với những câu thơ của bà Huyện Thanh Quan : “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà / Cỏ cây chen đá, lá chen hoa / Lưa thưa dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông rợ mấy nhà”... Và trong thơ của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám / Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Một cảnh sắc vô cùng sống động. Đến thời hiện đại, thơ phái đẹp càng phong phú, đa dạng, từ vẻ đẹp thiên nhiên đến vẻ đẹp con người, nhất là những người con gái vì nước mà hy sinh cả bản thân mình: “Có phải thịt da em mềm mại trắng trong / Đã hóa thành những làn mây trắng... Gương mặt em bạn bè tôi không biết / Nên mỗi người có gương mặt em riêng”... (Lâm Thị Mỹ Dạ- Khoảng trời và hố bom). Để rồi trên đất nước này những người con gái, những người chị, người mẹ đã hy sinh cả tình yêu, hạnh phúc trong những tháng năm đợi chờ của tuổi trẻ vì đất nước : “Anh khoác ba lô về / Đất trời dồn chật lại / Em tái nhợt niềm vui / Như trăng mọc ban ngày”... (Lê Thị Mây). Tôi thiển nghĩ, vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa, của tâm hồn con người mới là vẻ đẹp muôn đời trong thi ca, nhất là thi ca của phái đẹp. Mỗi lần nghe bài hát phổ thơ của cố nữ sỹ Xuân Quỳnh “Thơ tình cuối mùa thu” có lẽ hàng triệu người cũng thổn thức như tôi: “Tình ta như hàng cây / Đã qua mùa bão tố / tình ta như dòng sông / Đã yên ngày thác lũ ...Mùa thu ra biển cả / Theo dòng nước mênh mông / Mùa thu vào hoa cúc / Chỉ còn anh và em / Chỉ còn anh và em / Là của mùa thu cũ...”. Sinh thời nữ sỹ Xuân Quỳnh là người yêu hết mình, sống hết mình không chỉ trong thơ, dù chị biết “Lời yêu mỏng mảnh như sương khói / Ai biết lòng anh có đổi thay” ... Có những tình yêu mãnh liệt như nữ sỹ Xuân Quỳnh, cũng có những tình yêu thầm kín như “Hương Thầm” của nữ sỹ Phan Thị Thanh Nhàn: “Giấu một chùm hoa sang nhà hàng xóm.../nhờ hương thơm nói hộ tình yêu.../ Hương bưởi thơm cho lòng bối rối...”. Tình yêu thầm kín, dân dã mà nồng say cũng được nữ sỹ Phan Thi Thanh Nhàn diễn tả rất thành công: “Các cụ ông say thuốc / Các cụ bà say trầu / Còn con trai, con gái / Chỉ nhìn là say nhau...”. Vẻ đẹp trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam ngàn đời chính là vẻ đẹp thầm kín, đoan trang, nhu mì, không hề phô trương. Nhưng khi tình yêu say đắm ngập tràn tâm hồn người con gái, mọi ngăn cách không là gì, như nhà thơ Bùi Sim Sim đã viết: “Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh”. Yêu nhau, như người ta thường nói, chỉ có khen nhau, chỉ thấy ưu điểm của nhau, chàng trai luôn mê đắm và thấy người yêu của mình ở khía cạnh nào cũng đẹp. Nhưng, người con gái trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ lại sợ lời khen: “Em sợ lời khen của anh / Như sợ đêm về trời tối / Nhiều khi em ngồi một mình / Trách anh sao mà nông nổi / Hãy chỉ cho em cái xấu / Để em nên người tốt lành / Hãy chỉ cho em cái xấu / Để em chăm chút hồn anh... Bởi: “Tình yêu khắt khe biết mấy / Anh ơi anh đừng khen em...”. Tình yêu khắt khe là vậy, tình yêu có muôn vàn tâm trạng mà những nhà thơ trẻ hiện đại bây giờ không ngại bày tỏ hết những cảm xúc sâu xa nhất, bản ngã nhất, cháy bỏng nhất : Nỗi nhớ phờ phạc đổ bóng những chiều tà/ Nỗi nhớ gầy rạc trong thân xác héo rũ/ Nỗi nhớ như a xít ăn mòn răng tóc/ Chỉ còn lại hốc mắt khô/ Em.../ Em không thể chạy đến tìm anh để ngã vào cô đơn thêm một lần nữa (Trích bài thơ “ Con thú” của Như Bình) Khi đọc những câu thơ như thế, tôi thực sự giật mình, khi người thơ không còn giấu giếm những tình cảm cháy bỏng, trong sự phân thân đau đớn tột cùng, thơ ca đã thực sự ám ảnh tâm trí người đọc. Nhà thơ Trần Kim Hoa viết: “... Nẻo mùa xa xứ / Nẻo trời phân vân / Nẻo người lữ thứ / Nẻo vời cố nhân... (Trích tập thơ BÊN TRỜI) Phái đẹp, một nửa nhân loại của chúng ta có biết bao nhiêu nhà thơ từ xưa đến nay. Khi tôi tìm kiếm những câu thơ mà tôi cho là hay để đưa vào cuốn “ Những câu thơ hay Đông-Tây-Kim-Cổ” (Nhà xuất bản giáo dục năm 2013) tôi mới biết được nhiều điều mà lâu nay tôi chưa hiểu hết. Cái đẹp trong thơ phái đẹp mà tôi đã đọc, đã chiêm nghiệm mấy chục năm nay và bây giờ vẫn đang tìm kiếm quả là vô cùng vô tận, muôn màu, muôn vẻ như chính thế giới của người đẹp vậy. Trang bìa "Cánh đồng thức" của nữ sỹ Lê Thị Mây Cái đẹp trong thơ phái đẹp Tháng 11 năm 1965, nhà thơ đi thăm Quảng Bình. Sau khi trực tiếp nói chuyện với mẹ Suốt (vào ngày 4/11/1965), xúc động trước tinh thần chiến đấu ngoan cường của mẹ, ngay tối hôm đó dưới hầm trú ẩn máy bay Mỹ của Tỉnh ủy Quảng Bình nhà thơ đã hoàn thành bài thơ này theo thể lục bát, đã được báo Nhân dân đăng tải, từ đó bài thơ trở nên quen thuộc với công chúng. Hình ảnh: Ngẫng đầu mái tóc mẹ rung/ Gió lay như sóng biển tung trắng bờ. Là hình ảnh đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam anh hùng trong thơ xưa và nay. Bài thơ còn trở nên quen thuộc qua giọng ngâm có sức quyến rũ của cố nghệ sỹ Châu Loan bằng cách sử dụng làn điệu ca Huế, làm cho bài thơ càng thêm cuốn hút người nghe. Sau này ca khúc “Huyền thoại mẹ” của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã khắc họa thành công hình ảnh “Người mẹ Việt Nam anh hùng”, trong đó mang đậm hình ảnh mẹ Suốt. Chuyện kể rằng, sinh thời nhạc sỹ Trịnh Công Sơn nói về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Huyền thoại mẹ”, đó là đầu năm 1984, Trịnh Công Sơn trong một lần đi thăm Bảo tàng Quảng Bình, nhạc sỹ xúc động khi thấy tấm hình mẹ Suốt ngẩng cao đầu chèo đò đưa bộ đội sang sông dưới làn mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, mái tóc mẹ bay trong gió, che cả một khuôn trời. Từ tấm gương sáng chói của mẹ Suốt, nhạc sỹ họ Trịnh đã “khái quát hóa” hình tượng bà mẹ Việt Nam anh hùng: Một đời vì chồng, vì con, vì dân, vì nước mà thầm lặng hy sinh. “Huyền thoại mẹ”, ca từ gần gũi, quen thuộc gợi lên hình ảnh rất đỗi thân thương: “Mẹ về đứng dưới mưa che đàn con nằm ngủ”. Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, có biết bao bà mẹ mà những câu chuyện về họ là tấm gương chói sáng cho con cháu mai sau: “Đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày xưa”. Và chính những người mẹ đó đã “che từng căn hầm nhỏ, xóa sạch vết con về”. Những người mẹ này cũng là nguồn an ủi, động viên, chăm sóc cho bao chiến sỹ đang chiến đấu chống kẻ thù dân tộc: “mẹ là nước chứa chan, trôi giùm con phiền muộn, cho đời mãi trong lành, mẹ chìm dưới gian nan”. Có những lời ca tốt đẹp được các nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ điêu khắc ngợi ca bởi mẹ Suốt là một trong những hình ảnh điển hình của muôn vàn người phụ nữ Việt Nam anh hùng trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Cái danh “Mẹ Suốt” trở nên thân quen là bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà tên là Nguyễn Thị Suốt, sinh năm 1906, tại xóm Vạn Chài, làng Trung Bính, xã Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới, Quảng Bình. Mẹ sinh trưởng trong một gia đình ngư dân nghèo. Thuở nhỏ đã phải đi ở đợ suốt 18 năm, nhà thơ Tố Hữu viết: “Cực thân từ thuở mới lên chín mười”. Đến tuổi lập gia đình, mẹ Suốt gật đầu làm vợ lẽ cho cụ Trần Bệu. Mẹ sinh cho cụ 4 người con. Thân phận của mẹ được nhà thơ Tố Hữu khắc họa: “Lấy chồng cũng khổ con ra. Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!”. Mẹ cùng chồng và người vợ cả sống hòa thuận dưới mái nhà chung, coi con người vợ cả như con ruột của mình. Ngày người vợ cả của cụ Bệu, trước phút lâm chung, đã cầm tay mẹ Suốt dặn dò: “Cố gắng dạy con nên người”. Mẹ Cháu Thanh Hà ở cạnh nhà tôi, tối nào trước khi đi ngủ, bé cũng đọc thơ cho nội nghe. Bỗng một hôm tôi nghe giọng đọc ngọt ngào của bé: Mẹ rằng: quê mẹ Bảo Ninh/ Mênh mông sóng biển lênh đênh mạn thuyền. Tôi biết đó là bài thơ “Mẹ Suốt” của nhà thơ Tố Hữu, lúc bấy giờ là Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đảng. nTRẦN MẠNH THƯỜNG TƯ LIỆU Mẹ rằng, quê mẹ Bảo Ninh Một dạo, Đinh Thu Vân đã cuốn hút người đọc bằng những bài thơ với những ý tưởng thân quen mà cũng lạ. Người thơ yêu cả những bài thơ của người yêu của mình làm tặng người khác: “Thơ anh kỷ niệm một thời / Em xin giữ lại một đời vì anh / Trái tim đã đập chân thành / Xin yêu ngày tháng chưa dành cho nhau...”. Cha ông xưa từng nói đã yêu, yêu cả “tông ty, họ hàng”, tình yêu trong thơ Đinh Thu Vân là vậy, đó cũng là một nét đẹp, nhân văn, của những người con gái đang yêu. Mẹ Nguyễn Thị Suốt với Đại tướng Võ Nguyên Giáp

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==