Theo nội dung vụ án, vợ chồng ông Quý có 3.500m2 đất trồng cây tại phường 15, quận Gò Vấp, TPHCM. Ngày 3/2, vợ chồng ông bán lại cho ông Sĩ 500 m² đất bằng giấy viết tay với giá 500 triệu đồng.
Đến tháng 4/2009, vợ chồng ông Quý tiếp tục bán cho ông Dư và ông Thắng (cháu ông Dư) mỗi người 87 m² bằng giấy viết tay với giá 435 triệu đồng. Ông Thắng và ông Sĩ sau đó đã bán lại cho ông Dư.
Ngày 29/3/2017, ông Quý đã yêu cầu UBND phường xử lý việc xây dựng trái phép và yêu cầu những người này phải hoàn trả 674m2 đất đã bán.
Tháng 6/2017, ông Quý khởi kiện ông Dư, ông Thắng, ông Sĩ ra TAND quận Gò Vấp; yêu cầu tòa tuyên hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông với các đồng bị đơn trước đây vô hiệu, công nhận 647 m² đã bán thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn. Ông Quý đồng ý hoàn trả toàn bộ số tiền đã nhận trước đó (1,36 tỷ đồng).
Ông Dư cho rằng, toàn bộ diện tích đất 674m2 đất ông nhận chuyển nhượng lại từ vợ chồng ông Sĩ chứ không liên quan đến ông Quý. Do đó, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Yêu cầu tòa công nhận các giao dịch mua bán đất giữa ông với vợ chồng ông Quý và vợ chồng ông Sĩ, tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Quý đối với phần đất mà ông đã mua. Ông Thắng, ông Sĩ cũng đề nghị tòa chấp nhận yêu cầu của ông Dư.
Tháng 11/2019, TAND quận Gò Vấp đã xử sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Quý với ông Sĩ, công nhận 500 m² đất này cho vợ chồng ông Quý; chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Dư, công nhận hai hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Quý với ông Dư, ông Thắng tổng cộng là 174m2.
Sau phiên xử sơ thẩm, phía nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo, VKS cũng có kháng nghị. Ngày 1/7, TAND TP HCM xử phúc thẩm, chủ tọa Đỗ Khắc Tuấn thay mặt HĐXX tuyên bác kháng nghị của Viện kiểm sát, kháng cáo của phía bị đơn; chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ 674m2 đất cho ông Phan Quý (nguyên đơn) . Ông Quý có nghĩa vụ trả lại phần tiền đã nhận của các bị đơn từ thời điểm mua bán cùng với lãi suất đến ngày giải quyết vụ án.
Ngay sau khi án phúc thẩm vừa tuyên, 1 thành viên phía bị đơn xông ra ban công tóa án, có ý định nhảy lầu. Lực lượng chức năng đã kịp thời can ngăn.
Ngày 15/7, Chánh án TAND cấp cao tại TPHCM đã ký quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án.
Nội dung kháng nghị cho rằng, quan hệ tranh chấp trong vụ án phải được xác định là “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ" như tòa sơ thẩm xác định. Riêng tòa phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật “tranh chấp QSDĐ” nhưng lại quyết định tuyên bố không công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là mâu thuẫn, không phản ánh đúng bản chất của các quan hệ pháp luật giữa các đương sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 132 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp này không bị hạn chế.
Về yêu cầu của nguyên đơn, tuyến bố giao dịch dân sự vô hiệu thì các lý do nguyên đơn trình bày không thuộc phạm vi thỏa thuận của các bên khi lập giao dịch chuyển nhượng, không ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn.
Về yêu cầu phản tố của ông Lê Văn Dư đề nghị công nhận hợp đồng, kháng nghị phân tích theo Nghị quyết 02/2004 của HĐTP TAND tối cao thì hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ không coi là vô hiệu do vi phạm điều kiện chưa có quyền sử dụng đất hợp pháp và hợp đồng chuyển nhượng không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Toàn bộ 674 m2 đất tranh chấp các bị đều đã chuyển nhượng cho ông Dư, nên không vi phạm điều kiện tách thửa theo QĐ 190/2009 của UBND TPHCM.
Kháng nghị cho rằng nếu không phát sinh thêm tài liệu, chứng cứ nào khác thì phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ theo yêu cầu phản tố của ông Dư. Nếu có chứng cứ khác xác định hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu thì tòa án phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Tại phiên giám đốc thẩm chiều nay, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TPHCM chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND cấp cao tại TPHCM, quyết định hủy 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm của TAND 2 cấp TPHCM.