Lê Xuân Sơn:

Viết bằng tình, sống bằng chữ

Một cú hat-trick của nhà báo Lê Xuân Sơn: Ra mắt đồng thời ba cuốn sách khiến những người quen biết anh ít nhiều ngỡ ngàng. Thế nhưng ai đã tiếp xúc với anh đủ lâu đều hiểu rằng, với một người viết khỏe như thế, ba cuốn có lẽ chỉ là mở đầu. Chữ nghĩa với anh không chỉ là công việc, mà còn là nơi trú ngụ của tình cảm và ký ức.

1.Trước hết, phải nói ngay, Lê Xuân Sơn là người có một tình yêu đặc biệt với việc viết. Xuất phát điểm là một người làm thơ, làm báo, rồi kiêm luôn vai dịch giả (anh dịch nhiều, trong đó có một cuốn luôn nằm trong danh mục bán chạy là Trở về Eden. Một số nhà nghiên cứu thậm chí cho rằng, nó là tiền thân của dòng sách ngôn tình đang làm mưa làm gió hiện nay).

Ông Trần Thanh Lâm (bìa trái), Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận T.Ư, nhà báo Phùng Công Sưởng, Tổng Biên tập báo Tiền Phong (thứ hai từ trái qua) và nhà báo Lê Minh Toản, Phó Tổng Biên tập báo Tiền Phong (bìa phải) chúc mừng tác giả Lê Xuân Sơn. Ảnh: Như Ý

Ngay ở thời điểm anh làm Tổng biên tập báo Tiền Phong, với vô vàn sự vụ quấn thân hằng ngày, thỉnh thoảng, sau mỗi chuyến đi, anh vẫn viết những bài ký vài ba nghìn chữ. Vào những dịp đặc biệt, như Tết nhất, anh viết tản văn, thứ tản văn của một người làm thơ có nhịp của lục bát, đọc dễ vào, dễ chạm.

Sau lưng anh, những đàn em như chúng tôi thường nói vụng với nhau rằng: Mấy mươi năm làm cùng cơ quan mà cấm nghe thấy một “drama” tình ái nào, hóa ra libido đều được anh chuyển hóa thành chữ cả. Anh viết chăm chỉ, viết vui vẻ, viết say sưa về đủ chuyện, đủ người mà anh gặp, anh quan sát, anh chứng kiến.

Có khi nó là một bài ghi chép bốn năm nghìn chữ, có lúc nó chỉ là một mẩu tin vài ba trăm chữ. Như một phóng viên tẫn trách. Sau này, điện thoại thông minh phổ biến, mấy phóng viên ảnh còn ấm ức kể với tôi: “Ngài” bao luôn việc của hội này, gặp việc là giơ điện thoại lên chụp, không cần chờ phóng viên.

Tác giả Lê Xuân Sơn trong buổi ra mắt sách. Ảnh: Như Ý

Làm báo có cái dở là bài vở rất dễ “lạc hậu” theo dòng thời sự. Ấy thế mà sau bao năm, Lê Xuân Sơn nói rằng, lọc lại trong đống bản thảo, số bài còn “đọc được” đủ để cho anh ra 6 cuốn sách. Nghĩa là lần này, anh ra 3 cuốn là đã tiết chế lắm rồi đấy. Ba cuốn ấy có mục tiêu, nhiệm vụ riêng: Đã t lâu tôi người thành ph là thơ, Mây trắng còn bay là dạng ký chân dung, Như nước dòng mê là dạng ký lữ hành. Nói chung là thơ hay là ký thì đều được viết bằng một thứ tiếng Việt rất trong sáng và tình cảm. Đây là thứ tôi thích nhất ở văn anh.

2. Như phần lớn người Việt sống xa quê, Lê Xuân Sơn có một sự gắn bó đặc biệt với làng, với đồng ruộng, với nông thôn. Cái “quê” trong thơ anh giống như một thứ điểm tựa tinh thần trong nỗi hoài hương. Sự gắn bó, xót xa, nhung nhớ của Lê Xuân Sơn với quê luôn khiến tôi nhớ đến Đồng Đức Bốn: “Trở về với mẹ ta thôi/ Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ”.

Ba cuốn sách của tác giả Lê Xuân Sơn: Đã từ lâu tôi là người thành phố, Mây trắng còn bay, và Như nước dòng mê. Ảnh: Như Ý

Nếu Đồng Đức Bốn nhìn sự “mồ côi dưới mồ” như nỗi sợ mất gốc của người nông dân bị xô dạt, thì Lê Xuân Sơn lại nhìn nỗi ấy từ hiện tại của người đã “thành phố hóa”: “Về làng không dám chào to / sợ nhầm ngôi thứ... Đã từ lâu tôi là người thành phố / giữa cái ồn ào náo nhiệt, người khôn của khó / để không lạc mất mình, tôi biết tựa vào đâu”?

Một người sợ chết mà không còn mẹ để về, người kia sợ sống mà mất đi ký ức của quê nhà. Một người đối diện với mất mát đã rồi, người kia đối diện với mất mát sắp đến. Cả hai đều chạm tới cảm thức lạc mất, thứ cảm thức lớn nhất của con người hiện đại.

Ở cấp độ biểu tượng, “mẹ” trong thơ Đồng Đức Bốn là quê hương, là sự bao dung nguyên thủy của đất; còn trong thơ Lê Xuân Sơn, “quê” lại trở thành ký ức đang phai dần, chỉ còn lưu dấu trong “vết sẹo cắt cỏ, băm rau” hay “gót chân còn chai nứt”. Nếu Đồng Đức Bốn khẩn cầu được “trở về”, thì Lê Xuân Sơn lại âm thầm chịu đựng sự “không thể trở về”. Đó là bi kịch của những người sống giữa hai thế giới, nông thôn và đô thị, giữa một thời đại mà sự thay đổi nhanh đến nỗi có thể dễ dàng cuốn phăng gốc rễ.

3. Bởi vì thích sự dịch chuyển, trong ba cuốn sách của Lê Xuân Sơn, tôi chọn đọc Như nước dòng mê đầu tiên. Nhiều bài trong số ấy, tỉ như “Chạm một góc Paris văn học” hay “Anh đào muôn thuở” đã dung hòa được mỹ cảm du lịch, tinh thần tri thức và chiều sâu văn hóa. Ngoài kỹ năng “đi để kể lại”, anh đã nâng tầm câu chuyện thành những đối thoại văn hóa, giữa Việt Nam với thế giới, giữa cảm xúc cá nhân và ký ức nhân loại.

Ở “Chạm một góc Paris văn học” chẳng hạn, có cảm giác Lê Xuân Sơn không du ngoạn bằng đôi chân mà bằng ký ức văn học, giống như một Roland Barthes đi giữa thành phố của những ký hiệu. Mỗi địa điểm được anh kích hoạt bằng một “liên văn bản”: một câu thơ, một bản dịch, một giai thoại, vừa có chất “học giả” của người từng đọc kỹ Apollinaire, Hugo, Anatole France, vừa có chất “thi sĩ” của người đứng trước sông Seine mà “chỉ muốn tìm cầu Mirabeau”.

Một sự thú vị khác trong những bài ký của Lê Xuân Sơn là sự “nhập vai” của anh. Ở kiểu viết này, người kể không đứng ngoài làm “ống kính” ghi chép thụ động, mà chủ động lựa chọn, đối thoại, và thậm chí can dự. Vì thế, điểm nhìn luôn linh hoạt, rất dễ cuốn hút người đọc.

Chưa kể, cái việc “đặt mình vào trong” chính là tiền đề để mở ra một mối quan hệ hai chiều giữa tác giả và đối tượng. Quan hệ ấy không khép lại khi trang viết kết thúc; nó tiếp tục âm ỉ như một “hậu truyện” ngoài văn bản, trở thành sự đọc nối dài sau chuyến đi, những liên tưởng mới chồng lên những kỷ niệm cũ, những câu hỏi chưa kịp trả lời trở lại gõ cửa vào một thời điểm khác.

Nói như nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “Lê Xuân Sơn viết ký bằng kỹ năng của một nhà báo, tâm hồn của một nhà thơ và tấm lòng của một con người”.