Viêm màng não mô cầu lây như thế nào?

Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet
TPO - Đường lây bệnh chủ yếu theo đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh khi người bệnh nói chuyện, ho, hắt hơi và cũng có thể lây qua dụng cụ, quần áo, đồ dùng sinh hoạt bị nhiễm vi khuẩn não mô cầu. 

Viêm não do vi khuẩn não mô cầu là một bệnh truyền nhiễm và có nguy cơ thành dịch bệnh. Người nào chưa có miễn dịch với vi khuẩn não mô cầu đều có khả năng mắc bệnh. Nếu không phát hiện sớm để điều trị kịp thời có thể dẫn đến bệnh nặng, tử vong. Tuy vậy, bệnh này có thể đề phòng được.

Bệnh viêm não mô cầu là do một loại vi khuẩn gây nên chứ không phải do virut. Viêm màng não mô cầu là bệnh lây nhiễm và có khả năng thành dịch. Bệnh rất nguy hiểm vì có khả năng gây tử vong (5 - 10%) và có thể để lại di chứng nặng nề nếu khỏi bệnh.

Đường lây bệnh chủ yếu theo đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh khi người bệnh nói chuyện, ho, hắt hơi và cũng có thể lây qua dụng cụ, quần áo, đồ dùng sinh hoạt bị nhiễm vi khuẩn não mô cầu.

Có một tỷ lệ đáng kể người lành mang vi khuẩn không triệu chứng, nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi thì chúng gây bệnh.

 Vi khuẩn xâm nhập được vào bên trong cơ thể người lành nhờ một loại enzym (men) có tên là hyaluronidase. Đồng thời vi khuẩn này cũng tiết ra men kháng lại kháng thể IgA. Từ mũi, họng, vi khuẩn vào máu, gây nhiễm khuẩn huyết, khi vào khoang não tủy sẽ gây viêm màng não.

Tại đây vi khuẩn não mô cầu có thể gây viêm cả 3 loại màng não. Lúc đầu do kích thích của độc tố gây nên dịch rỉ viêm và sau đó nhanh chóng hóa thành mủ. Mủ sẽ đặc lại và gây bít tắc các lỗ thông dịch làm tắc nghẽn dịch não tủy. Dịch viêm cũng có khả năng làm chèn ép các dây thần kinh số II, III, IV, VI, gây mù lòa và lác mắt.

 Mặt khác, khi vi khuẩn đã vào mạch máu, tại các mao quản chúng nằm trong tế bào nội mạc, tại đây vi khuẩn não mô cầu phát triển nhanh chóng làm tắc các mao mạch, gây vỡ mạch, xuất huyết và hoại tử tổ chức được thể hiện bởi các triệu chứng lâm sàng.

Biểu hiện bệnh:

 Bệnh viêm màng não do não mô cầu rất đa dạng, từ viêm họng, mũi đến nhiễm khuẩn huyết, viêm não. Và thời kỳ ủ bệnh (nung bệnh) cũng rất khác nhau (từ 1 - 10 ngày).

Đối với viêm mũi, họng thường có sốt cao từ 38 - 39oC, rát họng nhiều, đau đầu, chảy mũi nước trong hoặc có kèm theo mủ. Sốt chỉ kéo dài từ 1 - 5 ngày. Các tổ chức ở họng, mũi sung huyết, viêm (amiđan, màn hầu, tổ chức họng, cuốn mũi...).

Bệnh lành tính sẽ qua khỏi nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Tuy vậy, cũng có khoảng từ 30 - 50% trường hợp viêm họng, mũi kết hợp với nhiễm khuẩn huyết.

Có 2 loại bệnh do não mô cầu gây nên hết sức nguy hiểm, đó là loại nhiễm khuẩn huyết và loại viêm màng não mủ.

Đối với thể nhiễm khuẩn huyết, bệnh thường xảy ra đột ngột, khoảng 40 - 41oC. Sốt cao liên tục hoặc dao động, kèm theo rét run, đau mỏi các cơ, khớp toàn thân.

Dấu hiệu ban xuất huyết “hình sao” do hoại tử nội mạch dưới da. Đây là một dấu hiệu điển hình. Ban xuất hiện sớm khoảng từ 5 - 15giờ hoặc muộn hơn. Ban có các đặc điểm như: ban xuất hiện toàn thân và thường ở các đầu ngón chân, tay, vành tai, cánh mũi.

Kích thước của mỗi ban không đồng đều từ 1 - 2mm, có thể to hơn, bờ nham nhở không tròn, có xu hướng lan rộng ra và chập lại với nhau.

Đặc biệt, các nốt ban to và ở trung tâm có nốt đen, sau đó tạo thành nốt phỏng rồi hóa thành mủ. Ngoài ra, gan, lách to ra nhanh (khám lâm sàng và siêu âm phát hiện). Huyết áp giảm dần và có thể tụt trong trường hợp sốc nhiễm khuẩn. Xét nghiệm máu ngoại vi (công thức máu) sẽ thấy bạch cầu tăng cao, tốc độ máu lắng tăng.

Đối với thể viêm màng não và viêm màng não - não thì sau sốt cao đột ngột là mệt mỏi và đau đầu nhiều. Xuất hiện các dấu hiệu của hội chứng màng não sớm, điển hình như nhức đầu dữ dội, nôn vọt, táo bón.

 Người bệnh nằm tư thế “cò súng” (thường gặp ở trẻ em do tăng trương lực cơ gấp để làm cho giảm đau), xuất hiện dấu hiệu cứng gáy, Kernig, Babinski và vạch màng não dương tính.

 Trong trường hợp gây phù nề não (thể viêm màng não, phù não kịch phát) thường vật vã, mạch chậm, huyết áp tăng vọt, rối loạn hô hấp và hôn mê. Bệnh nhân có thể tử vong do suy hô hấp vào những giờ đầu (trong vòng 48 giờ), hiếm hơn là vào 2 - 3 ngày sau.

MỚI - NÓNG